Những điều cần biết về Bầu cử Tổng thống Mỹ (P2)

09:35' - 08/11/2016
BNEWS "Giờ G" của cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 2016 đã chuẩn bị điểm. Nhưng Bầu cử Mỹ có những điểm khá phức tạp mà không phải ai cũng biết.

Việc ai sẽ ngồi vào chiếc ghế Tổng thống Mỹ sẽ quyết định khá nhiều đến những chính sách, chiến lược và tương lai của nước Mỹ cũng như những ảnh hưởng của nó đến cục diện toàn cầu. 

Hàng chục triệu người trên khắp thế giới đang nhìn về nước Mỹ để chờ đợi câu trả lời. Nhưng hệ thống bầu cử Mỹ cũng chứa đựng những đặc điểm khá riêng và khác lạ khiến nhiều người thắc mắc và khó hiểu.

Để giúp những người không phải là công dân Mỹ hiểu rõ hơn về hệ thống bầu cử Mỹ, Chương trình thông tin quốc tế (Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ) đã cung cấp một ấn phẩm chứa đựng 26 câu hỏi và trả lời cơ bản nhất để giải đáp các vấn đề này.

>>> Phần 1: Những điều cần biết về Bầu cử Tổng thống Mỹ

15-  Cần có bao nhiêu phiếu để giành chiến thắng trong cuộc bầu cử quốc hội Hoa Kỳ?

Nhiều hơn bất kỳ ứng viên nào khác. Nói một cách ngắn gọn, ứng cử viên nào nhận được đa số phiếu bầu (nghĩa là, có nhiều phiếu nhất tại các đơn vị bỏ phiếu nhất định) sẽ thắng cử. Đây được gọi là hệ thống “đơn vị bầu cử một thành viên”. Tại 39 bang, các ứng viên vào các cơ quan dân cử của bang và liên bang có thể được lựa chọn nếu có đa số phiếu bầu, nhưng 11 bang khác (Alabama, Arkansas, Georgia, Louisiana, Mississippi, North Carolina, Oklahoma, South Carolina, South Dakota, Texas và Vermont) có quy định về bầu cử quyết định chung cuộc nếu không có ứng cử viên nào nhận được đa số phiếu bầu.

Không giống như các hệ thống bầu cử theo tỷ lệ ở một số nền dân chủ, các đơn vị bầu cử một thành viên có nghĩa là chỉ có một đảng giành chiến thắng tại bất kỳ đơn vị bầu cử nhất định. Hệ thống này khiến các đảng phái chính trị nhỏ hơn ở vào thế bất lợi, do các đảng này sẽ gặp khó khăn trong việc chiến thắng đủ các đơn vị bầu cử để giành quyền lực và tầm ảnh hưởng quốc gia.

16-  Ứng cử viên tổng thống có nhiều phiếu nhất luôn giành chiến thắng?

Không phải luôn như vậy. Thực tế, đã có bốn cuộc bầu cử tổng thống mà người chiến thắng không nhận được đa số phiếu phổ thông. Người đầu tiên là John Quincy Adams trong cuộc bầu cử năm 1824, và gần đây nhất là vào năm 2000 trong cuộc chạy đua ghế tổng thống giữa George W. Bush và Al Gore.

17-  Điều đó xảy ra như thế nào?

Câu trả lời nằm ở “Cử tri đoàn”. Những người soạn thảo Hiến pháp Hoa Kỳ đã tìm cách tạo ra một hệ thống cân bằng lợi ích của 13 bang (lúc đó) và của người dân Mỹ. Cử tri chọn các nghị sĩ của Hạ viện, nhưng cơ quan lập pháp của bang (cũng do dân bầu) lại bầu các thượng nghị sĩ Hoa Kỳ. Và các bang cử các đại biểu đến một cơ quan – Cử tri đoàn – để chọn tổng thống và phó tổng thống.

Người Mỹ sau đó đã sửa đổi Hiến pháp để hệ thống bầu cử dân chủ hơn. Bắt đầu từ năm 1913, thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đã được người dân bầu trực tiếp. Và mặc dù Cử tri đoàn vẫn chính thức bầu ra tổng thống, song người dân lại là người lựa chọn các thành viên của Cử tri đoàn.

Hệ thống này hoạt động như sau:

Sau cuộc bầu cử tổng thống trên toàn quốc được tổ chức vào tháng 11, Cử tri đoàn sẽ gặp mặt vào tháng 12. Ở hầu hết các bang, các đại cử tri bỏ phiếu dựa trên cách đa số cử tri tại bang của họ bỏ phiếu. Các đại cử tri bỏ phiếu tại các bang của mình vào ngày 15 tháng 12, và Quốc hội chính thức kiểm phiếu vào tháng 1 năm sau.

Mỗi bang có một số đại cử tri bằng với số nghị sĩ của bang đó tại Hạ viện Hoa Kỳ - được quyết định thông qua một cuộc điều tra dân số của bang đó, và hai thượng nghị sĩ. Quận Columbia mặc dù không phải là một bang và không có đại diện có quyền biểu quyết tại Quốc hội, nhưng vẫn có ba phiếu đại cử tri.

Cử tri đoàn bao gồm 538 đại cử tri; và cần có 270 phiếu đại cử tri để giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống.

Hầu hết các bang trao phiếu đại cử tri trên cơ sở “được ăn cả, ngã về không”. Tấm vé tổng thống nhận được nhiều phiếu của công dân nhất sẽ nhận được tất cả phiếu đại cử tri của bang đó.

Hai bang – Nebraska và Maine – đã thử nghiệm trao phiếu đại cử tri của họ theo tỷ lệ dựa trên lá phiếu của công dân. Chiến lược bầu tổng thống bao gồm việc kết hợp các bang với nhau để hợp thành 270 phiếu đại cử tri. Kết quả bầu cử có thể thay đổi, phụ thuộc vào các phiếu đại cử tri trong một số ít các cuộc chạy đua cạnh tranh của các bang.

Một hệ quả của hệ thống “được ăn cả, ngã về không” là một ứng cử viên có thể giành nhiều phiếu phổ thông nhất trên toàn quốc nhưng lại thua trong cuộc bầu cử.

Hãy tưởng tượng rằng một ứng cử viên giành chiến thắng ở một bang với cách biệt sít sao và bang đó có nhiều phiếu đại cử tri. Ứng cử viên đó vẫn sẽ nhận được tất cả số phiếu đại cử tri. Vì vậy, nếu một ứng cử viên giành chiến thắng ở bang California với cách biệt sít sao, họ vẫn nhận được tất cả 55 phiếu đại cử tri của bang California. Đồng thời, chính ứng cử viên đó có thể thua ở các bang nhỏ hơn khác với cách biệt lớn và nhận được ít phiếu phổ thông hơn đối thủ của mình. Nhưng ứng cử viên đó vẫn sẽ có lợi thế trong Cử tri đoàn.

Đây là điều quan trọng đối với các ứng cử viên khi thực hiện chiến dịch tranh cử ở tất cả các bang, kể cả những bang có dân số nhỏ hơn và ít phiếu đại cử tri hơn, để nhận được tổng cộng 270 phiếu đại cử tri.

18-  Tại sao người Mỹ duy trì Cử tri đoàn?

Điều đó được quy định trong Hiến pháp, và rất khó để sửa đổi Hiến pháp. Hệ thống Cử tri đoàn cũng tăng cường hệ thống hai đảng, nghĩa là không đảng nào trong số hai đảng lớn có khả năng vận động thay đổi.

Nhưng có những lý do khác để giữ lại Cử tri đoàn.

Nhiều người Mỹ thích cách hệ thống Cử tri đoàn đòi hỏi các ứng cử viên tổng thống thực hiện chiến dịch tranh cử rộng rãi - ngay cả ở những bang nhỏ hơn nơi người dân có thể không có cơ hội tiếp cận các ứng cử viên. Và do các ứng cử viên tổng thống không thể có đủ phiếu đại cử tri nếu chỉ tập trung vào một bang hoặc một khu vực, nên họ phải tìm hiểu và giải quyết các vấn đề mà cử tri quan tâm ở tất cả các vùng trên cả nước. Kết quả là, hệ thống Cử tri đoàn có ảnh hưởng đến cách tiến hành các chiến dịch tranh cử tổng thống, và cũng ảnh hưởng đến chi phí thực hiện một chiến dịch tranh cử tổng thống.

19-  Các ứng cử viên tổng thống chi tiền cho các chiến dịch tranh cử như thế nào?

Từ năm 1976, các ứng viên tổng thống có thể xin tài trợ từ ngân sách chính phủ để thực hiện các chiến dịch tranh cử. Đến cuộc bầu cử năm 2000, tất cả các ứng viên được đề cử tranh chức tổng thống đều tham gia vào hệ thống này bằng việc nhận tiền từ ngân sách chính phủ với lời hứa cam kết không chi nhiều hơn một số tiền đã định.

Tuy nhiên, hệ thống này giờ đây đã không còn hấp dẫn đối với các ứng viên nữa, bởi giới hạn chi tiêu đặt ra được cho là quá thấp, và còn ít hơn cả số tiền mà các ứng viên chính có thể thường xuyên gây được từ các nguồn tư nhân. Kết quả là, một số ứng viên tổng thống gần đây đã từ chối khoản tài trợ từ ngân sách chính phủ và thay vào đó gây quỹ để tài trợ các chiến dịch tranh cử của mình.

Tranh cử là cuộc đua vô cùng tốn kém. (Ảnh minh họa)

Đối với các ứng viên tự gây quỹ riêng, luật liên bang quy định các ứng cử viên tổng thống, thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ gây quỹ như thế nào và từ những ai. Luật cũng hạn chế số tiền mà một cá nhân có thể quyên góp. Luật đảm bảo rằng báo chí và người dân biết được ai đang góp quỹ cho một ứng cử viên nhất định.

Ứng cử viên tổng thống phải thành lập một tổ chức cho chiến dịch vận động của mình gọi là ủy ban chính trị, và đăng ký với Ủy ban Bầu cử Liên bang. Sau khi đăng ký, các ủy ban chính trị có thể tìm kiếm nguồn đóng góp nhưng phải báo cáo tất cả nguồn tiền đã gây quỹ được cho Ủy ban Bầu cử Liên bang để thông tin cho công chúng. Các ứng cử viên tổng thống của các đảng lớn gần đây đã chi hàng trăm triệu đô la cho chiến dịch tranh cử của mình. Những ứng viên gây quỹ riêng phải tìm được hàng ngàn người đóng góp.

20-  Tại sao các chiến dịch tranh cử tổng thống Hoa Kỳ lại tốn kém đến vậy?

Câu trả lời ngắn gọn là chi phí truyền thông đến 100 triệu cử tri trong 12 tháng hoặc hơn trong mùa tranh cử tổng thống là đắt đỏ. Các ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ phải vận động tranh cử ở cấp quốc gia và tại 50 bang. Điều này có nghĩa họ phải thuê nhân viên vận động cả ở cấp bang và cấp quốc gia, trực tiếp gặp gỡ cử tri, và thông qua truyền hình quốc gia và địa phương, đài phát thanh và các phương tiện truyền thông xã hội. Sự gia tăng các cuộc bầu cử sơ bộ và họp kín đã khiến các chiến dịch tranh cử dài hơn, chi phí đi lại và quảng cáo tốn kém nhiều hơn trước đây.

Để thực hiện chiến dịch tranh cử, ứng cử viên cần phải thuê nhân viên; bố trí văn phòng và phương tiện đi lại; tiến hành nghiên cứu; phát hành các bài trình bày quan điểm; quảng cáo trên đài phát thanh và truyền hình, trong các ấn phẩm và trên mạng Internet; và thực hiện hàng loạt buổi xuất hiện trước công chúng và các sự kiện gây quỹ.

Các ứng viên tổng thống còn có một nhiệm vụ khó khăn nữa là phải tổ chức các cuộc vận động tranh cử sơ bộ hết bang này đến bang khác, và sau đó nếu được đề cử thì tiến hành vận động tranh cử chung trên khắp đất nước. Ứng cử viên vào Hạ viện sẽ vận động tranh cử ở đơn vị bầu cử cụ thể của mình, trong khi ứng cử viên vào Thượng viện phải thực hiện vận động trong toàn bang.

21-  Các ứng cử viên có thể tiếp cận các nguồn tài trợ khác không?

Năm 2010, Tòa án tối cao ra phán quyết rằng chi tiêu cho hoạt động chính trị là chi tiêu cho một hình thức tự do ngôn luận và do đó được Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ bảo vệ. Kết quả là, từ năm 2010, các ứng cử viên có thể sử dụng không hạn chế số tiền của riêng mình để tài trợ cho các chiến dịch tranh cử.

Phán quyết này cũng mang lại nhiều tự do hơn cho các “Ủy ban hành động chính trị” (PAC), được hình thành khi các cá nhân, doanh nghiệp và các nhóm lợi ích gom và quyên tiền để ủng hộ các ý tưởng, các ứng cử viên, các sáng kiến bỏ phiếu hoặc đạo luật cụ thể. Theo luật liên bang, một tổ chức sẽ trở thành một PAC khi nó nhận được hoặc chi tiêu hơn 2.600 đô la Mỹ nhằm mục đích gây ảnh hưởng đến cuộc bầu cử liên bang. Các bang có luật riêng quy định khi nào một tổ chức sẽ trở thành một PAC.

Vì các tổ chức này độc lập với ủy ban gây quỹ chính thức của ứng cử viên, nên PAC không chịu sự điều chỉnh bởi cùng một quy định - mặc dù các tổ chức này phải đăng ký với Ủy ban bầu cử liên bang - nhưng lại bị giới hạn về cách phối hợp chặt chẽ với các ứng cử viên. Ví dụ, một

PAC không thể đóng góp nhiều hơn 5.000 đô la Mỹ trực tiếp cho ủy ban bầu cử của một ứng cử viên, nhưng có thể chi một số lượng tiền không giới hạn để thực hiện các quảng cáo ủng hộ hay phản đối quan điểm một ứng viên cụ thể.

22-  Các cuộc thăm dò quan trọng như thế nào?

Mặc dù không phải là một phần của các quy tắc và luật về bầu cử, nhưng các cuộc thăm dò dư luận đã trở thành một phần quan trọng của quá trình bầu cử. Nhiều ứng viên chính trị thuê người làm công việc thăm dò dư luận và thường xuyên tiến hành thăm dò dư luận. Việc thăm dò dư luận giúp các ứng viên chính trị biết họ đang được đánh giá tích cực đến mức nào so với các đối thủ của mình và những vấn đề gì là quan trọng hơn hết đối với các cử tri. Báo chí, truyền hình và các phương tiện truyền thông khác cũng thực hiện các cuộc thăm dò dư luận và thông báo kết quả (cùng với kết quả của các cuộc thăm dò dư luận riêng) nhằm giúp công chúng biết được sự ưa thích của họ đối với các ứng viên, các vấn đề và quan điểm của họ so với quan điểm của những người khác.

50 năm trước, chỉ có một hoặc hai tổ chức lớn đứng ra thực hiện việc thăm dò dư luận. Ngày nay, trong kỷ nguyên thông tin tức thời, internet và các trên các kênh truyền hình cáp đưa tin sốt dẻo liên tục 24 giờ, có nhiều cuộc thăm dò dư luận hơn và nhiều báo cáo và phân tích về kết

quả của các cuộc thăm dò dư luận. Trong khi một số cuộc thăm dò sử dụng các phương tiện tiên tiến, các cuộc thăm dò khác lại được tiến hành vội vã với quy mô quá nhỏ - và có giá trị giải trí hơn là giá trị khoa học xã hội. Những năm gần đây ngày càng có nhiều người nghi ngờ về tính chính xác và khách quan của nhiều cuộc thăm dò dư luận, và ít nhất hai công ty thăm dò dư luận lớn đã phải dừng việc thăm dò kiểu “qua loa hình thức” xung quanh cuộc bầu cử tổng thống. Dù sao đi nữa, các ứng cử viên, các phương tiện truyền thông hoặc công chúng hẳn sẽ chưa từ bỏ thăm dò hoặc đưa tin các kết quả thăm dò thuận lợi trong tương lai gần.

23-  Ai thực hiện các cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ?

Tại Hoa Kỳ, các cuộc bầu cử - kể cả bầu cử cho các chức vụ liên bang – được thực hiện ở cấp địa phương. Hàng nghìn viên chức bầu cử – thường là viên chức hoặc thư ký tại các hạt hoặc thành phố - có trách nhiệm tổ chức và tiến hành các cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ.

Những viên chức bầu cử này thực hiện một gói nhiệm vụ quan trọng và phức tạp:

-          Chọn ngày bầu cử chính xác. Xác minh tư cách ứng cử viên.

-          Đăng ký các cử tri đủ điều kiện và lập danh sách cử tri đăng ký.

-          Lựa chọn thiết bị bỏ phiếu. Thiết kế phiếu bầu.

-          Tổ chức một đội ngũ lớn tạm thời để quản lý công tác bỏ phiếu trong Ngày Bầu cử.

-          Lập bảng kiểm phiếu và xác nhận kết quả.

Hầu hết các cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ không thật ngang sức, nhưng đôi khi lại có những cuộc đua với chiến thắng rất sít sao hoặc những cuộc đua mà trong đó kết quả còn gây tranh cãi và phải kiểm phiếu lại. Điều này xảy ra ở một số địa điểm tại bang Florida trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 – tỷ lệ sít sao nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, cuộc chạy đua đó khiến người Mỹ phải xem xét lại hàng loạt nhiệm vụ về quản lý hành chính xung quanh các cuộc bầu cử Hiến pháp Hoa Kỳ quy định công dân từ 18 tuổi trở lên có quyền đi bỏ phiếu. Không có danh sách toàn quốc về các cử tri đủ điều kiện, vì thế các địa phương sẽ lập các danh sách đó thông qua việc yêu cầu công dân đăng ký cử tri. Việc này nhằm ngăn chặn gian lận. Trước kia, các thủ tục đăng ký chọn lọc đã được áp dụng để ngăn cản những công dân nhất định – đặc biệt là người Mỹ gốc Phi ở miền Nam - tham gia bỏ phiếu. Ngày nay, Đạo luật về Quyền bỏ phiếu nghiêm cấm các hoạt động kỳ thị này.

Mỗi bang thiết lập các yêu cầu riêng về đăng ký cử tri. Công dân thay đổi nơi ở phải đăng ký lại tại nơi cư trú mới của mình. Đôi khi, các bang nới lỏng các yêu cầu về đăng ký nhưng đôi lúc họ lại thắt chặt các yêu cầu đó. Đạo luật Đăng ký cử tri năm 1993 cho phép công dân có thể đăng ký bầu cử vào lúc họ gia hạn bằng lái xe do bang cấp. Một số bang cho phép cử tri đăng ký vào Ngày Bầu cử. Tuy nhiên, mới đây một số bang đã thông qua các luật quy định phải có chứng minh thư do chính phủ cấp hoặc bỏ việc đăng ký vào Ngày Bầu cử.

Các viên chức bầu cử phải đảm bảo rằng mọi cử tri đủ điều kiện muốn đi bỏ phiếu đều có tên trong danh sách đăng ký. Họ cũng phải loại khỏi danh sách những người không đủ tiêu chuẩn (thường là vì họ còn quá nhỏ hoặc không sinh sống tại khu vực đó). Nhìn chung, các viên chức bầu cử địa phương vẫn để tên những người trong danh sách mặc dù gần đây họ không đi bỏ phiếu, hơn là loại bỏ tên các cử tri có thể đủ tiêu chuẩn. Khi một người đến điểm bỏ phiếu mà không thấy có tên mình trên danh sách đăng ký, các viên chức thường cấp cho họ một lá phiếu tạm thời để ghi nhận việc bỏ phiếu. Chỉ sau khi đã xem xét người đó có đủ tiêu chuẩn hay không (thường diễn ra sau Ngày Bầu cử), khi đó lá phiếu mới được kiểm đếm.

Các viên chức bầu cử cũng phải thiết kế các tấm phiếu bầu cho mỗi cuộc bầu cử và đảm bảo rằng tất cả các ứng viên đã được chứng nhận đều có tên trong danh sách và tất cả các vấn đề được nêu trong lá phiếu để cử tri cho ý kiến phải được diễn đạt chính xác. Và họ phải cố gắng thiết kế lá phiếu càng đơn giản và càng rõ ràng càng tốt.

Không có các tiêu chuẩn quốc gia nào về hình thức của lá phiếu nhưng luật liên bang quy định các viên chức bầu cử phải cung cấp những phiếu bầu bằng nhiều thứ tiếng nếu có một tỷ lệ dân chúng tại khu vực đó không nói tiếng Anh như ngôn ngữ chính.

Trong trường hợp sử dụng các máy bỏ phiếu thay thế cho các tấm phiếu bầu giấy, các viên chức địa phương có trách nhiệm lựa chọn và bảo trì các máy móc đó. Và các viên chức địa phương cũng phải tuyển mộ và đào tạo một đội ngũ đông đảo các nhân viên tạm thời làm việc 10 đến 15 giờ vào Ngày Bầu cử.

24-  Người Mỹ bỏ phiếu như thế nào?

Do chính quyền địa phương, thay vì chính quyền trung ương, tiến hành các cuộc bầu cử, nên các địa phương khác nhau - thậm chí trong cùng một bang - có thể có các loại lá phiếu và công nghệ bỏ phiếu khác nhau.

Ngày nay, rất ít cử tri Hoa Kỳ đánh dấu “X” bên cạnh tên ứng viên trên lá phiếu bầu bằng giấy, bởi vì nhiều địa phương sử dụng các hệ thống quang học để quét các lá phiếu mà các cử tri đã tô vào các ô tròn hoặc nối các đường lại. Tuy nhiên vẫn có những địa phương khác sử dụng một loạt thiết bị bỏ phiếu được cơ giới hóa khác nhau.

Trong những năm gần đây, nhiều bang đã áp dụng các thủ tục cấp phiếu bầu cho các cử tri trước ngày bầu cử. Xu hướng này bắt nguồn từ quy định về các lá phiếu vắng mặt, cấp cho các cử tri dự định sẽ không có mặt ở nhà (và ở địa điểm bỏ phiếu của họ) vào Ngày Bầu cử. Một số bang và địa phương từng bước tự do hóa quy định này, cho phép công dân đăng ký là “cử tri vắng mặt hoàn toàn” và đều đặn gửi lá phiếu bầu đến nhà của họ. Hai bang Oregon và Washington tiến hành các cuộc bầu cử hoàn toàn qua đường bưu điện. Các cử tri vắng mặt thường gửi lại phiếu bầu của họ qua đường bưu điện.Hiện nay một số bang cho phép công dân bỏ phiếu sớm lên đến ba tuần trước Ngày Bầu cử, sử dụng máy bỏ phiếu ở các trung tâm mua sắm và những nơi công cộng khác. Công dân dừng chân để bỏ phiếu khi thấy thuận tiện.

25-  Bỏ phiếu sớm có ảnh hưởng đến kết quả bầu cử không?

Không, bởi vì ngay cả khi người dân bỏ phiếu sớm, lá phiếu của họ chưa được kiểm đếm cho đến khi đóng cửa phòng bỏ phiếu vào đêm bầu cử.

Điều này ngăn chặn rò rỉ thông tin chính thức về những ứng cử viên nào đang có số phiếu hơn hay kém, và do vậy có thể làm ảnh hưởng đến việc bỏ phiếu của các cử tri khác vào Ngày Bầu cử.

Một điểm chung mà tất cả các địa phương của Hoa Kỳ đều có là không lá phiếu nào được lập bảng kiểm phiếu chính thức và công bố công khai cho đến khi các phòng bỏ phiếu đã đóng cửa.

Mặc dù các đài truyền hình Hoa Kỳ thường tiến hành một cuộc thăm dò sau bầu cử đối với những người vừa mới bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử quốc gia, song trong những năm gần đây hoạt động này đang chịu sự giám sát chặt chẽ.

26-  Hoa Kỳ sẽ làm gì để duy trì các cuộc bầu cử công bằng trong tương lai?

Một trong những bài học quan trọng về cuộc bầu cử tổng thống cực kỳ sít sao năm 2000 đó là các thách thức về quản lý bầu cử, phiếu bầu và kiểm phiếu mà bang Florida gặp phải cũng có thể xảy ra ở hầu hết các khu vực bầu cử khác tại Hoa Kỳ. Một số nghiên cứu đã được tiến hành, và một số ban hội thẩm đã được thành lập để lắng nghe các luận cứ của chuyên gia và dẫn ra các bằng chứng về sự cần thiết phải cải cách.

Vào năm 2002, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Giúp đỡ bỏ phiếu ở Mỹ (Help America Vote Act), nhằm giải quyết các vấn đề của cuộc bầu cử năm 2000 và tiên lượng các vấn đề mới. Thứ nhất, chính phủ liên bang đã cung cấp khoản tiền cho các bang và các địa phương để thay thế các máy bỏ phiếu kiểu đòn bẩy và kiểu thẻ đục lỗ đã lỗi thời.

Thứ hai, thành lập một Ủy ban Hỗ trợ bầu cử để hỗ trợ kỹ thuật bầu cử địa phương và giúp các viên chức địa phương xây dựng các tiêu chuẩn về thiết bị bỏ phiếu. Ủy ban này nghiên cứu về máy bỏ phiếu và thiết kế tấm phiếu bầu, các phương pháp đăng ký và bỏ phiếu tạm thời, các kỹ thuật nhằm ngăn chặn gian lận, các thủ tục tuyển chọn và đào tạo các nhân viên phòng bỏ phiếu, các chương trình nâng cao trình độ cho cử tri.

Đạo luật Giúp đỡ bỏ phiếu ở Mỹ đánh dấu sự mở rộng đáng kể về vai trò của chính phủ liên bang trong các vấn đề từ trước đến nay được giao cho các địa phương. Nhưng những cải cách này đã giúp lấy lại niềm tin vào tiến trình bầu cử tại Hoa Kỳ.

(Bài viết được thực hiện dựa trên tài liệu do Trung tâm Hoa Kỳ - Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội cung cấp).

>>> Theo dõi những tin tức mới nhất về Bầu cử Mỹ 2016 tại đây

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục