Yếu tố làm trầm trọng thêm vấn đề nợ ở các nước đang phát triển

05:30' - 19/04/2022
BNEWS Cuộc xung đột tại Ukraine làm dấy lên quan ngại về cuộc khủng hoảng tiềm tàng có thể làm rung chuyển các thị trường cũng như làm suy yếu sự phục hồi kinh tế toàn cầu.

Theo tờ Wall Street Journal, cuộc xung đột tại Ukraine đang khiến nhiều chính phủ ở các thị trường mới nổi trở nên khó khăn hơn trong việc thanh toán các khoản nợ cho các chủ nợ nước ngoài. Điều này làm dấy lên những quan ngại về các cuộc khủng hoảng tiềm tàng có thể làm rung chuyển các thị trường cũng như làm suy yếu sự phục hồi kinh tế toàn cầu.

Rất nhiều quốc gia trong số này đã tích lũy hàng núi nợ trong suốt thập kỷ qua khi lạm phát và lãi suất vẫn ở mức thấp, và đặc biệt trong hai năm qua khi chi phí liên quan đến đại dịch COVID-19 đang tăng cao.

Chiến dịch quân sự của Nga tại Ukraine và các lệnh trừng phạt của phương Tây đã khiến giá lương thực, năng lượng và các mặt hàng khác tăng vọt vào thời điểm nhiều ngân hàng trung ương lớn đang tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát.

Giờ đây, từ Islamabad đến Cairo và Buenos Aires, các quan chức chính phủ đang phải vật lộn với giá nhập khẩu tăng cao và hóa đơn nợ do đại dịch vẫn đang tiếp diễn. Sri Lanka vừa cho biết, nước này sẽ tạm ngừng thanh toán nợ nước ngoài và yêu cầu hỗ trợ tài chính khẩn cấp từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Bộ Tài chính Sri Lanka cho hay xung đột tại Ukraine và đại dịch COVID-19 đã làm ảnh hưởng đến doanh thu du lịch, khiến nước này không thể thực hiện các khoản thanh toán.

Ông Kenneth Rogoff, nhà kinh tế học của Đại học Harvard, nhận định: “Sẽ có những cuộc khủng hoảng. Khi chúng ta bị ảnh hưởng bởi những cú sốc như vậy thì bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Điều đang đè nặng đối với bất kỳ vấn đề mang tính hệ thống nào vào thời điểm hiện nay là lãi suất trên toàn cầu vẫn thấp… Nhưng điều đó ngày càng ít đúng hơn đối với các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển”.

Theo Giám đốc phụ trách chiến lược, chính sách và đánh giá của IMF Ceyla Pazarbasioglu, mặc dù IMF không dự báo về một cuộc khủng hoảng nợ toàn cầu vào thời điểm này, nhưng “có rất nhiều rủi ro mà chúng tôi rất lo ngại”.

Tìm ra cách thức mở rộng và thúc đẩy khuôn khổ nhằm giải quyết vấn đề nợ cho các quốc gia đang phát triển gặp khó khăn sẽ là ưu tiên của Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20), mà các bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng của các nền kinh tế này sẽ tham dự kỳ họp mùa Xuân của IMF và Ngân hàng Thế giới (WB) bắt đầu từ ngày 18/4 tại thủ đô Washington của Mỹ.

Bà Pazarbasioglu cho biết, tổng các khoản vay trên toàn cầu của các chính phủ, tập đoàn và hộ gia đình đã tăng thêm 28 điểm phần trăm lên 256% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 2020. Đây là mức chưa từng thấy kể từ sau hai cuộc xung đột thế giới trong nửa đầu thế kỷ XX.

Trong khi các quốc gia giàu có ít gặp khó khăn trong việc đối phó với các khoản nợ ngày càng tăng nhờ lãi suất vẫn ở mức thấp và tăng trưởng kinh tế vững chắc, rất nhiều nền kinh tế đang phát triển đang cảm thấy áp lực hơn. Khoảng 60% các quốc gia có thu nhập thấp - tức là khoảng 70 quốc gia đủ điều kiện đối với chương trình đình chỉ thanh toán nợ toàn cầu trong thời kỳ đại dịch - có nguy cơ rơi vào tình trạng nợ cao hoặc đã lâm vào cảnh khốn cùng trong năm 2020, tăng so với mức 30% vào năm 2015, theo IMF. Vấn đề nợ được coi là khó khăn khi một quốc gia không thể thực hiện các nghĩa vụ tài chính của mình và cơ cấu lại nợ là bắt buộc.

Những nỗ lực hỗ trợ các quốc gia mắc nợ đang gặp khó khăn đang trở nên phức tạp do sự gia nhập của các chủ nợ mới và ít kinh nghiệm hơn trong hoạt động cho vay của các nước đang phát triển trong những năm gần đây. Tìm kiếm lợi nhuận trong thị trường lãi suất thấp, các nhà đầu tư bao gồm các quỹ hưu trí, quỹ cổ phần tư nhân và các tổ chức tài chính thuộc sở hữu của chính phủ chồng chất với khoản nợ chính phủ có lợi suất cao.

Theo IMF, tỷ lệ nợ nước ngoài của 73 quốc gia nghèo mắc nợ cao đối với Trung Quốc đã tăng từ 2% trong năm 2006 lên tới 18% vào năm 2020, trong khi cho vay khu vực tư nhân tăng từ 3% lên 11%. Trong khi đó, tỷ trọng kết hợp của những người cho vay truyền thống - các tổ chức đa phương như IMF và WB và những người cho vay thuộc Câu lạc bộ Paris của hầu hết các chính phủ phương Tây giàu có - đã giảm từ 83% xuống 58%.

Bà Sonja Gibbs, Giám đốc điều hành các sáng kiến chính sách toàn cầu tại Viện Tài chính Quốc tế (IIF), nói rằng: “Nếu bạn không hiểu rõ ai là người sở hữu các khoản nợ, thì rất khó để thực hiện tái cơ cấu hiệu quả”.

Hai trong số những ví dụ điển hình về rủi ro mà các nước đang phát triển yếu hơn phải đối mặt là Sri Lanka và Pakistan. Cả hai đều sa lầy vào các cuộc khủng hoảng chính trị ngày càng gia tăng sau cuộc xung đột tại Ukraine.

Theo IMF và các dữ liệu phân tích của ngân hàng trung ương, suy thoái kinh tế của Sri Lanka đã làm dấy lên các cuộc biểu tình lớn về lạm phát kỷ lục, mất điện kéo dài và tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng đối với hàng hóa cơ bản như thuốc men và khí đốt. Lạm phát hàng năm của Sri Lanka đã lên tới 17,5% trong tháng Hai. Nợ công liên quan đến các dự án cơ sở hạ tầng tăng cao trong thập kỷ qua. Tổng các khoản thanh toán nợ sắp đến hạn trong năm nay là 7 tỷ USD, với một trái phiếu trị giá 1 tỷ USD sẽ đáo hạn vào tháng Bảy. Tuy nhiên, dự trữ ngoại hối của nước này chỉ có khoảng 2,3 tỷ USD.

Chương trình hỗ trợ của IMF đối với Pakistan đang bị đình chỉ sau khi cựu Thủ tướng Imran Khan vào cuối tháng Hai công bố kế hoạch trợ cấp điện và nhiên liệu trị giá 1,5 tỷ USD mà không có sự chấp thuận của IMF. Ông Khan bị lật đổ vào ngày 9/4 do các cuộc biểu tình liên quan đến chi phí sinh hoạt tăng cao. Giá tiêu dùng ở Pakistan đã tăng 12,7% trong tháng Ba so với cùng kỳ năm trước.

Trong khi đó, nền kinh tế Ai Cập cũng đang phải vật lộn với tình trạng lĩnh vực du lịch bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19, tình trạng lạm phát cao hơn và tháo chạy đầu tư nước ngoài kể từ khi Nga đưa quân vào Ukraine. Ngân hàng trung ương Ai Cập đã giảm giá đồng tiền nước này khoảng 14% vào tháng Ba để mở đường cho sự hỗ trợ của IMF. Chính phủ Ai Cập trước đây đã thắt chặt chính sách tiền tệ để làm cho các khoản nợ hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Ai Cập đã phải đối mặt với những thách thức kinh tế lâu dài bao gồm sự gia tăng nghèo đói và sự suy giảm lực lượng lao động. Nước này đã vay khoảng 20 tỷ USD từ IMF kể từ năm 2016, đứng thứ hai sau Argentina về viện trợ từ tổ chức này kể từ những năm 1980. Trong năm 2020 và 2021, Chính phủ Ai Cập đã chi hơn 40% nguồn thu để trả nợ và dự kiến sẽ tiếp tục duy trì tỷ lệ trả nợ như vậy trong năm nay.

Ngay sau khi Ai Cập giảm giá đồng tiền, các quốc gia Vùng Vịnh đã cam kết bơm khoảng 22 tỷ USD vào nước này, trong khi Liên minh châu Âu (EU) cũng viện trợ 100 triệu USD để giúp Ai Cập đối phó với giá lương thực tăng cao do cuộc xung đột ở Ukraine. Các nhà kinh tế cho biết Ai Cập có khả năng cũng sẽ tìm kiếm thêm sự hỗ trợ của IMF.

Tunisia là một nền kinh tế khác cũng đang tìm kiếm sự hỗ trợ, với các kệ hàng tạp hóa gần đây đã hết đường, bột mì và các nguồn cung cấp thực phẩm quan trọng khác và chính phủ đang trì hoãn việc trả lương cho công chức. Tháng trước, Chính phủ Tunisia đã nhận được khoản tài trợ 400 triệu USD từ WB và hy vọng sẽ được IMF đảm bảo một nguồn tài chính.

Ông Roberto Sifon-Arevalo, giám đốc phân tích về xếp hạng quốc gia tại hãng xếp hạng tín dụng S&P Global Ratings, cho biết: “Hầu hết mọi quốc gia hiện nay đều có nhiều nợ hơn so với năm 2008 khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu”./.

                      

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục