Xử lý nợ xấu - Đưa dòng vốn luân chuyển vào nền kinh tế

Xử lý nợ xấu - Đưa dòng vốn luân chuyển vào nền kinh tế

Nợ xấu vốn được coi là “cục máu đông” ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống tài chính ngân hàng và hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp. Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng của Quốc hội đã tạo hành lang pháp lý xử lý nợ xấu hiệu quả trong 5 năm qua.

Tuy nhiên, liên tiếp trong 2 năm 2020-2021, dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nặng nề tới cộng đồng doanh nghiệp cộng với việc huy động vốn trái phiếu doanh nghiệp thiếu kiểm soát chặt chẽ dự báo nợ xấu ngân hàng gia tăng. Trong khi đó, ngày 15/8/2022 Nghị quyết 42 sẽ chính thức hết hiệu lực thi hành.

TTXVN thực hiện chùm bài viết về xử lý nợ xấu nhằm phản ánh những kết quả đã đạt được trong quá trình thí điểm xử lý nợ xấu và những giải pháp chính sách tiếp theo để đưa dòng vốn vào nền kinh tế trong thời gian tới.

Bài 1: Đưa dòng vốn luân chuyển vào nền kinh tế

Ngân hàng Nhà nước cho biết, thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết 42), từ năm 2017 đến nay toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 380.000 tỷ đồng nợ xấu.

Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú, đây là khối lượng vốn rất lớn đã được quay vòng và tái tạo đầu tư trở lại cho nền kinh tế; giải quyết được nhiều lãng phí xã hội. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, nợ xấu đang xu hướng tăng lên.

Nợ xấu có xu hướng tăng

Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, cuối năm 2021 tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 1,9% (tăng 0,21 điểm % so với cuối năm 2020), nếu tính thêm nợ bán cho Công ty TNHH Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) thì con số này là 3,9%.

Tỷ lệ nợ xấu gộp, bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản cơ cấu lại tăng mạnh lên mức 7,31% cuối năm 2021 và gần tương đương với con số cuối năm 2017 là 7,4% khi chưa thực hiện Nghị quyết 42.

Theo báo cáo tài chính năm 2021 mới được các ngân hàng công bố, nợ xấu có xu hướng gia tăng rõ rệt so với năm 2020 tại một số ngân hàng như Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) tăng 60%, Ngân hàng Thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam (Vietinbank) tăng 49%, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIB) tăng 58%, Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HDB) tăng 43%...

Giới chuyên gia cũng cảnh báo, trong 2-3 năm tới, riêng khoản nợ 138.000 tỷ đồng trái phiếu bất động sản đến hạn trả nợ trong khi khó khăn do ảnh hưởng dịch COVID-19 và các xung đột chính trị đang bủa vây doanh nghiệp có khả năng gây ra các khoản nợ xấu.

Bên cạnh đó, nợ xấu cũng sẽ sớm lộ diện trên báo cáo tài chính các ngân hàng khi thời hạn cơ cấu nợ xấu chỉ kéo dài đến ngày 30/6/2022 thực hiện theo Thông tư 14/2021/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19. Có nghĩa do không còn đợt giãn nợ nào khác sau thời hạn này, các ngân hàng sẽ công bố nợ xấu thực tế.

“Với tỷ lệ nợ xấu ở mức 7,31% vào cuối năm 2021 thì điều này khó đảm bảo thực hiện được mục tiêu duy trì tỷ lệ nợ xấu ở mức an toàn dưới 3%, sẽ có tác động tiêu cực, trực tiếp đến chất lượng tài sản và năng lực tài chính của các tổ chức tín dụng”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú nói.

Các chuyên gia kinh tế cho rằng, nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng gia tăng là điều đã được dự báo trước khi mà sự bùng phát của đại dịch COVID-19 đã gây ra các tổn thất nặng nề đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, sinh kế và đời sống của người dân.

Theo VAMC, dịch đã có các tác động mạnh tới hoạt động xử lý nợ xấu của công ty này từ các khoản nợ mua theo giá trị thị trường, việc đôn đốc khách hàng chỉ thực hiện gián tiếp qua gọi điện và gửi email, không tiếp xúc trực tiếp nên kết quả thu hồi nợ bị hạn chế. Dịch cũng khiến tài sản đấu giá khó thu hồi tiền bán do khách hàng gặp khó khăn tài chính, bàn giao tài sản và hoàn tất thủ tục sau đấu giá bị đình trệ. Việc tổ chức đấu giá tài sản không thể thực hiện do giãn cách xã hội...

TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV tỏ ra không ngạc nhiên khi tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ngân hàng tăng mạnh kể từ năm 2020 và dự kiến sẽ còn tăng trong giai đoạn tới. 

TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV

Theo TS. Cấn Văn Lực, để ứng phó với diễn biến tiêu cực của nợ xấu, các tổ chức tín dụng đã chủ động phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, tỷ lệ bao phủ nợ xấu bình quân của 28 ngân hàng thương mại niêm yết và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (chiếm khoảng 80% thị phần tổng tài sản) đã tăng lên mức 150% cuối năm 2021, là mức cao nhất từ trước tới nay, song nợ xấu vẫn còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, gánh nặng đối với hệ thống tổ chức tín dụng.

Do đó, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, nợ xấu vẫn là tâm điểm của thị trường tài chính Việt Nam trong năm 2022, khi mà tỷ lệ nợ xấu gộp đang ở mức cao nhất trong vòng 4 năm trở lại đây, phá vỡ thành quả tái cơ cấu các tổ chức tín dụng trong giai đoạn 2016 - 2020. Do có độ trễ, nợ xấu nội bảng được dự báo có thể lên mức 2,3 - 2,5% và nợ xấu gộp sẽ khoảng 6% trong năm 2022, có thể còn ở mức cao hơn.

Phó Thống đốc Đào Minh Tú cũng xác định, năm 2022 là một năm thử thách lớn cho ngành ngân hàng.

Hoàn thiện hành lang pháp lý

Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, Ngân hàng Nhà nước đang đẩy mạnh thực hiện các giải pháp để kiểm soát và xử lý nợ xấu; ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh; ngăn ngừa tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các tổ chức tín dụng có liên quan. Đồng thời, tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động của tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao, phấn đấu duy trì tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức an toàn.

Đặc biệt, mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 47/NQ-CP thông qua đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về việc kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 (Nghị quyết số 42) của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước là một tín hiệu tích cực cho việc tiếp tục duy trì cơ sở pháp lý đủ mạnh để thực hiện việc xử lý nợ xấu trong giai đoạn tới.

Trụ sở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ảnh: Trần Việt/TTXVN

Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực, hơn 70% các khoản nợ xấu được xử lý; tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng trong giai đoạn 2016-2020 được duy trì dưới mức 3% và giảm liên tục qua các năm. Đặc biệt, Nghị quyết còn có tác động rất tích cực tới thái độ và trách nhiệm của khách hàng trong việc trả nợ hoặc hợp tác thu giữ, phát mại tài sản đảm bảo.

Song, việc triển khai Nghị quyết 42 còn rất nhiều vướng mắc, bất cập như thu giữ tài sản bảo đảm, xác định thứ tự ưu tiên thanh toán từ tiền bán/phát mại tài sản bảo đảm, nguyên tắc áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu…

Các khó khăn, vướng mắc chủ yếu do bất cập, xung đột pháp lý giữa các văn bản quy phạm pháp luật ngành ngân hàng với các văn bản quy phạm pháp luật khác và xuất phát từ quá trình thực thi, dẫn đến một số quy định tại Nghị quyết 42 không thể áp dụng được trên thực tế.

Do đó, ông Nguyễn Quốc Hùng Tổng Thư ký Hiệp hội ngân hàng cho rằng cần luật hoá Nghị quyết 42 để xử lý vấn đề nợ xấu một cách triệt để, với thời gian và tiến độ nhanh hơn. Việc các ngân hàng thực hiện xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu dựa trên quy định của luật về xử lý nợ xấu sẽ đảm bảo cơ sở pháp lý có hiệu lực cao tương ứng với các luật khác để khắc phục được những hạn chế, rào cản pháp lý trong thực tiễn thực hiện Nghị quyết 42 hiện nay.

Ông Nguyễn Quốc Hùng cho rằng cần rà soát toàn diện các luật khác có liên quan đến xử lý nợ xấu và xử lý tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng như các luật về thuế, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Phá sản, Luật Thi hành án dân sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính… để phân tích, đánh giá những điểm chưa thống nhất, còn mâu thuẫn, đảm bảo hài hòa, kết nối với các quy định của pháp luật khác có liên quan.

Phó Thống đốc Đào Minh Tú cũng cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã đề xuất báo cáo Chính phủ nghiên cứu ban hành Luật Xử lý nợ xấu trong thời gian tới. Tuy nhiên, để có Luật Xử lý nợ xấu phải có thời gian nghiên cứu, khảo sát, đánh giá, tác động ban hành Luật. Nếu không kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết 42 thì sẽ có một số khoản nợ thuộc đối tượng trong Nghị quyết 42 mà không có cơ sở pháp lý để triển khai, đây sẽ là khó khăn cho những khoản nợ đó.

Bên cạnh xây dựng Luật Xử lý nợ xấu, các chuyên gia cũng cho rằng, cần sớm có giải pháp thúc đẩy thị trường mua bán nợ phát triển và coi đây là kênh chính để xử lý nợ xấu, chứ không cần các cơ chế đặc thù.

VAMC thu giữ tài sản đảm bảo đầu tiên theo Nghị quyết 42 là dự án Saigon One Tower (tên gọi cũ là Cao ốc Sài Gòn M&C) nằm ở khu đất vàng Tôn Đức Thắng - Võ Văn Kiệt - Hàm Nghi

Sàn giao dịch nợ VAMC đã được thành lập gần nửa năm nay và nguồn nợ xấu đã sẵn sàng để giao dịch nhưng các tổ chức tín dụng và VAMC vẫn chưa thể hiện thực hóa mua bán trên sàn.

Theo các chuyên gia kinh tế, để thị trường giao dịch sôi động cần có thêm nhiều người mua. Hiện pháp luật chưa có quy định cụ thể về mua bán nợ xấu đối với nhà đầu tư nước ngoài, do đó cần hoàn thiện chính sách để mở rộng chủ thể tham gia thị trường. Đồng thời cần luật hóa quy định về xử lý nợ xấu để tạo hành lang pháp lý trong việc xử lý tài sản bảo đảm.

Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm thủ tục cũng như nghiên cứu đánh giá cho phép kéo dài Nghị quyết 42 thời gian tới. Hy vọng một hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu sẽ được định hình ngay giúp hỗ trợ các tổ chức tín dụng xử lý "cục máu đông", đưa nguồn vốn kịp thời phục hồi nền kinh tế.

Bài 2: Ngân hàng "cầm đằng chuôi" nhưng vẫn gặp khó

Thời gian qua, hàng loạt khối tài sản đảm bảo trị giá từ vài chục đến cả nghìn tỷ đồng được các ngân hàng rốt ráo rao bán để thu hồi nợ xấu. Dù ở thế "cầm đằng chuôi" nhưng việc thu hồi các khoản nợ này không hề dễ dàng. Nhiều tài sản thậm chí phải rao bán đến hàng chục lần, giá trị liên tục giảm sâu mới có thể bán được.

Rốt ráo xử lý tài sản đảm bảo

Chỉ tính riêng trong tháng 3/2022, trang web chính thức của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) đã phát ra tới 60 thông báo về việc bán đấu giá tài sản, bán đấu giá khoản nợ, lựa chọn đơn vị tổ chức bán đấu giá tài sản, thẩm định tài sản bảo đảm...

Trong khi đó, con số này tại các ngân hàng lớn khác như Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cũng lên tới 40 thông báo, Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) là 24 và Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) là 11.

Trong đó có thể kể tới lô đất ở lâu dài tại đô thị có diện tích hơn 3.071,2 m2 ở quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh đang được Agribank rao bán với giá khởi điểm gần 167 tỷ đồng. Đây là tài sản bảo đảm cho khoản vay của Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Xuất nhập khẩu Quốc tế Thái Dương và khoản vay của Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ V.LIFE tại Agribank Chi nhánh An Phú.

Khối tài sản này không phải được rao bán lần đầu và mức giá khởi điểm trên đã giảm hơn 15,6% so với giá 198 tỷ đồng mà Agribank rao bán hồi tháng 4/2021.

Trước đó, Agribank đã thông báo đấu giá bán khoản nợ của Doanh nghiệp tư nhân Thanh Tùng với giá khởi điểm là 352,5 tỷ đồng. Trong khi giá trị ghi sổ của khoản nợ tính đến ngày 15/10/2018 là hơn 708,3 tỷ đồng, bao gồm dư nợ gốc là gần 352,2 tỷ đồng và nợ lãi là hơn 356,1 tỷ đồng.

Tài sản đảm bảo của khoản nợ bao gồm quyền sử dụng đất sản xuất kinh doanh tại huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh có diện tích gần 7.000 m2 và tài sản hình thành trong tương lai là toàn bộ giá trị xây dựng của công trình cao ốc căn hộ Hạnh Phúc.

Dù mức giá khởi điểm liên tục giảm so với các lần đấu giá trước nhưng liên tục từ tháng 11/2018 đến nay, Agribank vẫn chưa bán thành công khoản nợ này.

Hay tại BIDV, khoản nợ của Công ty TNHH XD và KD Nhà Bách Giang và Công ty TNHH XD TM Cao Nguyên được BIDV đem ra đấu giá với giá khởi điểm gần 253 tỷ đồng, chưa bằng một nửa so với toàn bộ dư nợ gốc và lãi hơn 515 tỷ đồng tạm tính đến ngày 30/9/2021. Tài sản đảm bảo là toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản đầu tư trên đất thuộc Công ty Bách Giang tại Dự án Khu dân cư khu phố 4, Phường Phước Long A, Quận 9.

Tháng 2/2022, BIDV cũng thông báo bán đấu giá lần thứ 10 đối với tài sản là khoản nợ của Công ty CP Kiến trúc và Xây dựng Archplus. Giá khởi điểm lần này là 257 tỷ đồng, bằng đúng giá trị nợ gốc và không thay đổi so với lần rao bán trước. Tổng dư nợ tính đến ngày 15/4/2021 của khoản nợ này là 498 tỷ đồng; trong đó dư nợ gốc là 257 tỷ đồng, nợ lãi là 173,8 tỷ đồng và phí phạt quá hạn là 67,2 tỷ đồng.

Hàng loạt tài sản bảo đảm được thông báo phát mại trên website của Vietcombank. Nguồn: Vietcombank

Một khối tài sản "khủng" khác đang được Vietcombank rao bán là tài sản đảm bảo của Công ty TNHH Kỹ Nghệ Evergreen Việt Nam với giá khởi điểm gần 1.100 tỷ đồng. Bao gồm quyền sử dụng các thửa đất có tổng diện tích hơn 30.000 m2, công trình và toàn bộ máy móc của Công ty Evergreen Việt Nam tại Khu công nghiệp VSIP II và quyền sử dụng đất 40.000 m2, công trình và toàn bộ máy móc của công ty này tại Khu công nghiệp VSIP IIA. Mức giá khởi điểm đã giảm gần 100 tỷ đồng so với lần rao bán vào tháng 11/2021.

Lý giải cho hiện tượng tài sản rao bán giá "hời" mà vẫn "ế dài", TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng của BIDV nhận định nguyên nhân chủ yếu là do nền kinh tế khó khăn dưới tác động của đại dịch COVID-19 kéo dài, thị trường giao dịch tài sản nói chung thanh khoản thấp.

Thêm vào đó, quy định không cho phép giảm giá quá nhiều nên mỗi lần phát mại giá chỉ giảm nhỏ giọt khiến cho dù có đem ra đấu giá đến 5-10 lần vẫn bất thành. Chưa kể vẫn xảy ra hiện tượng bên đi vay thiếu hợp tác nên dù có hoàn tất thủ tục đấu giá thì quá trình chuyển giao tài sản còn rất phức tạp.

Nâng sức đề kháng

Trong khi nợ xấu cũ chưa xử lý hết, nợ xấu mới lại tiềm ẩn tăng cao khi Thông tư 14/2021/TT-NHNN liên quan đến cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 sắp hết hạn, các ngân hàng sẽ phải trở lại cách phân loại nợ bình thường sau tháng 6/2022 này.

Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng vốn được coi là liều thuốc phá vỡ cục máu đông nợ xấu của nền kinh tế, cũng sẽ hết hạn vào tháng 8 tới đây.

Bên cạnh đó, Nghị quyết 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội do Quốc hội ban hành; trong đó có chính sách về cho vay ưu đãi được hỗ trợ 2% lãi suất. Như vậy, mức dư nợ tín dụng trong thời gian tới sẽ tăng lên, độ phủ rộng. Theo giới chuyên gia, đây cũng là yếu tố có nguy cơ gây ra những khoản vay nợ có thể rơi vào tình trạng nợ xấu.

Tuy nhiên, mới đây Chính phủ đã thông qua đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết 42 đến ngày 15/8/2025 theo kiến nghị của Ngân hàng Nhà nước. Đây là tin vui với ngành ngân hàng bởi việc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 mang lại nhiều hiệu quả tích cực trong các năm qua.

Như tại BIDV, ông Phan Thanh Hải, Phó Tổng Giám đốc ngân hàng cho biết tổng số nợ xấu theo Nghị quyết 42 đã được xử lý lũy kế từ ngày 15/8/2017 đến nay là gần 100.500 tỷ đồng, bình quân khoảng 25.000 tỷ đồng/năm, tăng mạnh so với mức khoảng 15.000 tỷ đồng/năm trong giai đoạn trước khi có Nghị quyết 42.

Đối với kết quả thu hồi nợ ngoại bảng, tổng số dư nợ mà BIDV đã xử lý và thu hồi được trong 10 năm qua là 37.247 tỷ đồng. Trong đó, số thu nợ từ năm 2012-2017, trước thời điểm Nghị quyết 42 có hiệu lực, là 12.423 tỷ đồng, bình quân mỗi năm khoảng 2.000 tỷ đồng; nhưng sau khi Nghị quyết 42 có hiệu lực, số thu nợ trong giai đoạn từ năm 2018-2021 là 24.824 tỷ đồng, bình quân mỗi năm khoảng 6.200 tỷ đồng.

Tuy ghi nhận hiệu quả đáng kể trong xử lý nợ xấu nhưng ông Hải cho rằng hiện nãy vẫn thiếu các quy định, hướng dẫn cách thức thẩm định giá khoản nợ của tổ chức tín dụng, gây nhiều khó khăn cho tổ chức tín dụng khi bán nợ cũng như khách hàng có nhu cầu mua nợ trong việc xem xét giá trị khoản nợ, cũng như sẽ tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động mua bán nợ, vì khi tổ chức tín dụng bán nợ, thì việc thẩm định, xác định giá trị khoản nợ cơ bản chỉ dựa trên giá trị của tài sản đảm bảo.

Ông Phan Thanh Hải, Phó Tổng Giám đốc BIDV phát biểu tại một hội thảo về xử lý nợ xấu. Ảnh: BNEWS phát

Do đó, cần thiết phải có cơ sở pháp lý trong việc xác định giá trị khoản nợ – đối tượng được giao dịch để tạo dựng một thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp, công khai, minh bạch.

Bên cạnh chìa khóa về khung pháp lý, trong năm qua các ngân hàng đã mạnh tay nâng bộ đệm dự phòng rủi ro để sẵn sàng cho các tình huống. Báo cáo tài chính của hầu hết các ngân hàng cho thấy, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đã tăng mạnh trong năm 2021.

Theo đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu nội bảng (LLR) tại Vietcombank được nâng lên mức cao kỷ lục toàn ngành ngân hàng với 424%; BIDV đạt 235%; VietinBank trên 170%... Một số ngân hàng cũng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao như Ngân hàng TMCP Quân đội (MB), Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank), Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam (MSB)...

Theo lãnh đạo một ngân hàng thương mại, "bộ đệm dày" không chỉ dành riêng cho các khoản nợ xấu phát sinh do đại dịch COVID-19 mà còn là sự tăng cường thận trọng trước những biến cố có thể xảy đến trong tương lai.

Một cuộc khảo sát mới được Ngân hàng Nhà nước tiến hành gần đây cho thấy, nợ xấu của hệ thống ngân hàng trong quý I/2022 được các tổ chức tín dụng nhận định có chiều hướng "giảm nhẹ" so với quý IV/2021 và kỳ vọng tiếp tục giảm nhẹ trong quý II/2022.

Bài cuối: Nhanh chóng luật hóa xử lý nợ xấu

Chỉ còn thời gian ngắn nữa Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng sẽ hết hiệu lực thi hành. Mặc dù Nghị quyết đã tạo điều kiện xử lý khối lượng lớn nợ xấu nhưng trong cuộc trao đổi giữa phóng viên TTXVN với Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu cho thấy vẫn còn những hạn chế trong quá trình thực hiện. Dưới đây là nội dung cuộc trao đổi.

Phóng viên: Nhìn lại gần 5 năm qua kể từ khi Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết 42) ra đời và có hiệu lực, hoạt động xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng đã có những chuyển biến ra sao thưa ông? Và những vướng mắc nào vẫn còn tồn tại trong quá trình xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng?

Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu: Nghị quyết 42 đã tạo ra hành lang pháp lý xử lý nợ xấu và đạt được kết quả nhất định. Theo đó, nhiều tổ chức tín dụng và khách hàng trên cơ sở Nghị quyết 42 tự thỏa thuận xử lý nợ xấu, thanh lý tài sản bảo đảm, chuyển giao tài sản bảo đảm.

Một sàn giao dịch mua bán nợ cũng đã được Công ty TNHH Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) thành lập từ tháng 10/2021 và hoạt động đến nay.

Tuy nhiên, sau 5 năm triển khai Nghị quyết 42 cũng thấy những tồn tại. Rõ nét nhất là sàn giao dịch mua bán nợ xấu hoạt động chưa hiệu quả do các vướng mắc luật lệ.

Chúng ta nên biết rằng, người mua nợ xấu không hướng đến khoản nợ mà là nhằm vào tài sản bảo đảm và muốn thủ tục chuyển giao từ tài sản đảm bảo phải thực hiện nhanh chóng.

Tuy nhiên điều này hiện rất khó khăn. Chẳng hạn chỉ một thủ tục công chứng chuyển nhượng nợ cũng khó thực hiện vì những người làm công chứng chưa quen hoặc chưa biết việc mua bán nợ xấu.

Vấn đề tiếp theo là trong Nghị quyết 42 có quy định về thủ tục rút gọn xử lý nợ xấu của tòa án. Tuy nhiên thực tế, tòa án cũng khó xử lý nhanh được bởi việc điều tra các vấn đề pháp lý khoản nợ xấu cũng rất rắc rối.

Ngoài ra các vấn đề về thanh lý tài sản đảm bảo, thu giữ tài sản đảm bảo cũng chưa thực sự hiệu quả.

Phóng viên: Nhiều ý kiến cảnh báo nợ xấu sẽ tiếp tục tăng cao do dịch COVID-19, đồng thời cũng chính dịch bệnh đã khiến bản chất của nợ xấu có sự thay đổi. Quan điểm của ông về vấn đề này ra sao?

Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu: Trong thời gian dịch bệnh vừa qua tỷ lệ nợ xấu tính đến cuối tháng 12/2021 đã tăng đến 7,3% trên tổng dư nợ và bao gồm cả nợ nội bảng và nợ ngoại bảng. Vấn đề cần tính đến nữa là trong thời gian dịch bệnh COVID-19, rất nhiều doanh nghiệp khó khăn, thua lỗ có thể phát sinh thêm các khoản nợ xấu mới.

Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 14/2021/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, nhưng Thông tư này chỉ kéo dài đến thời điểm 30/6/2022. Trong khi đó, Nghị quyết 42 đến tháng 8/2022 cũng hết hiệu lực đồng nghĩa cơ chế thí điểm xử lý nợ xấu cũng kết thúc. Như vậy vấn đề xử lý nợ xấu năm nay rất phức tạp.

Công ty tài chính kiểm soát chặt chẽ rủi ro nợ xấu sau dịch. Ảnh: Fe Credid

Phóng viên: Theo ông, việc kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42/2017/QH14 thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng đến năm 2025 có phải giải pháp hiệu quả trong bối cảnh hiện nay?

Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu: Tôi nghĩ rằng nếu kéo dài Nghị quyết 42 thêm 3 năm nữa cũng không giải quyết được vấn đề nợ xấu. Nó cũng như dịch COVID không mất đi mà chúng ta phải "sống với lũ", bởi khi nào các ngân hàng còn cho vay thì còn nợ xấu.

Nghị quyết 42 là nghị quyết mang tính thí điểm để học hỏi kinh nghiệm. Nếu có thể gia hạn cũng phải ít nhất là 5 năm. Nhưng vấn đề là gia hạn 3 hay 5 năm mà không bổ sung các thiếu sót của nghị quyết hiện tại thì không có ý nghĩa.

Theo tôi cần chuyển Nghị quyết 42 trở thành 1 luật và được bổ sung những điều khoản dựa trên những thực tế, kinh nghiệm đã trải nghiệm trong 5 năm qua để trở thành một luật với các cơ sở pháp lý để xử lý nợ xấu. Còn nếu không chuẩn bị kịp thì ít nhất là gia hạn.

Phóng viên: Ông có đề xuất nào đối với các cơ quan quản lý nhằm tăng hiệu quả xử lý nợ xấu và tháo gỡ rủi ro tiềm tàng cho nền kinh tế?

Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu: Một trong những điểm mà tôi đề nghị với các cơ quan chức năng là thủ tục đấu giá tài sản đảm bảo. Tại sao lại cứ phải đấu giá có 1 cái giá khởi điểm mà cái giá khởi điểm đó phải được sự đồng ý của tất cả các bên rồi nếu không được đồng ý của ngân hàng và khách hàng thì lại phải tổ chức một cuộc đấu giá với khởi điểm mới và cứ thế sẽ tiếp tục có các cuộc đấu giá nếu không thành công.

Vậy tại sao chúng ta không áp dụng giá khởi điểm bằng chính khoản nợ ngân hàng và cộng thêm một khoản tiền. Nếu ai đấu giá trên giá ngân hàng thì tài sản thuộc người đó và khoản tiền dư giá khởi điểm của ngân hàng có thể thanh toán chi phí đấu giá… Còn nếu không có ai đấu giá cao hơn ngân hàng thì ngân hàng là người nhận tài sản đảm bảo và được xử lý tài sản đó.

Điều thứ hai là tôi đề nghị Quốc hội nên có Luật phá sản cá nhân. Khi có Luật phá sản cá nhân, tòa án xem xét giữ lại tài sản cho nhu cầu thiết yếu của cá nhân đó, còn lại tài sản khác được xử lý nợ. Tuy nhiên, hình thức này có thể sẽ bị lạm dụng và không đạt được mục đích thu hồi nợ.

Phóng viên: Xin cảm ơn ông!

  • Nguồn: TTXVN
  • Tác giả: Thùy Dương - Lê Phương/BNEWS/TTXVN
  • Biên tập: Thành Trung