Nhiều chuyên gia lo ngại về chính sách ưu đãi thuế tại đặc khu kinh tế

19:52' - 23/05/2018
BNEWS Nhiều chuyên gia kinh tế lo ngại các chính sách ưu đãi thuế trong dự thảo Luật Khu hành chính kinh tế đặc biệt sẽ tạo ra “vùng trũng” cho doanh nghiệp né thuế thông qua chuyển lợi nhuận...
Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Văn Giáp/BNEWS/TTXVN

Dự thảo Luật đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt (đặc khu kinh tế) đang chờ Quốc hội phê duyệt tại Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIV vừa khai mạc ngày 21/5 vừa qua được kỳ vọng sẽ tạo cơ chế chính sách vượt trội, đột phá; trong đó có chính sách thuế nhằm tạo cực tăng trưởng mới không chỉ cho ba đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa) và Phú Quốc (Kiên Giang) mà còn cho ba tỉnh và cả nước.
Tuy nhiên, tại hội thảo "Thảo luận về chính sách ưu đãi thuế tại các đặc khu kinh tế" được tổ chức tại Hà Nội ngày 23/5, nhiều chuyên gia kinh tế lo ngại rằng, các chính sách ưu đãi thuế trong Dự thảo Luật Khu hành chính kinh tế đặc biệt sẽ tạo ra “vùng trũng” cho doanh nghiệp né thuế thông qua chuyển lợi nhuận, không chỉ các doanh nghiệp đa quốc gia mà chính các doanh nghiệp Việt Nam có thể chuyển lợi nhuận giữa trong và ngoài đặc khu.
Bà Nguyễn Thu Hương, Quản lý cấp cao chương trình quản trị của tổ chức Oxfam cho rằng, những ưu đãi của Chính phủ về thuế trong đặc khu kinh tế chưa thực sự phù hợp.
Theo bà Hương, dự thảo luật nên xem xét lại các chính sách ưu đãi thuế tại các đặc khu kinh tế. Những bất bình đẳng trong nghĩa vụ đóng thuế đang là một trong những nguyên nhân khiến vấn đề bất bình đẳng toàn cầu ngày càng nghiêm trọng. Người dân và những doanh nghiệp nhỏ đang phải cõng gánh nặng thuế thay cho các doanh nghiệp, tập đoàn lớn.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê công bố tháng 2/2017, tại Việt Nam, trong khi lợi nhuận của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 45,9% lợi nhuận toàn bộ các loại hình doanh nghiệp, bộ phận này lại đóng số thuế thấp nhất trong các thành phần kinh tế.
Báo cáo của Oxfam về đánh giá chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam 2016 cũng chỉ ra rằng chính sách ưu đãi và miễn giảm thuế của Việt Nam cho các doanh nghiệp và dự án lớn chưa mang lại hiệu quả, tác động kinh tế như mong đợi. Trong khi đó, điều này lại tạo ra sự thất thu về ngân sách, cũng như các tác động tiêu cực về môi trường và xã hội.
Do đó, từ góc độ công bằng thuế, đại diện Oxfam khuyến nghị Quốc hội và Chính phủ cẩn trọng xem xét lại các chính sách ưu đãi thuế từ điều 40 đến điều 43 của dự thảo Luật đặc khu kinh tế.
Theo Oxfam, các chính sách ưu đãi thuế trong dự thảo là không cần thiết vì các lĩnh vực ưu đãi không có gì mới so với các luật khác. Các ngành công nghiệp nằm trong đề xuất ưu tiên của các đặc khu gần như trùng lặp với các ngành ưu tiên của các khu công nghệ cao và các khu kinh tế khác đã triển khai.
Ba ngành mới là casino, nghỉ dưỡng, bất động sản thì vốn đã thu hút sẵn đầu tư khi chưa có luật đặc khu. Theo báo cáo của tỉnh Quảng Ninh, từ 2015 đến nay đã thu hút được khoảng 36.000 tỷ đồng đầu tư vào các dự án.
Bên cạnh đó, đối tượng mới khác được hưởng ưu đãi thuế trong dự thảo là lĩnh vực nghiên cứu phát triển, các doanh nghiệp khởi nghiệp và các trung tâm nghiên cứu sáng tạo có đặc thù là kết quả kinh doanh không ổn định. Do vậy, việc được miễn thuế trong ngắn hạn có thể cũng không mang lại nhiều lợi ích cho nhóm nhà đầu tư này. Đặc biệt, các chính sách ưu đãi thuế có thể làm trầm trọng hóa vấn đề thất thu thuế từ hoạt động chuyển giá của doanh nghiệp.
Các nước đang phát triển bao gồm cả Việt Nam đang bị thất thu 100 tỷ USD hàng năm do hoạt động tránh thuế của các tập đoàn đa quốc gia.

Các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam vốn đã rất nỗ lực trong những năm qua để chống hoạt động né thuế thông qua chuyển giá của các doanh nghiệp.
Oxfam lo ngại rằng, chính sách ưu đãi thuế trong dự thảo Luật Khu hành chính kinh tế đặc biệt sẽ tạo ra một vùng trũng về thuế ngay trong chính Việt Nam, không chỉ tạo điều kiện cho doanh nghiệp đa quốc gia chuyển giá, mà chính các doanh nghiệp Việt Nam có thể né thuế bằng cách chuyển lợi nhuận từ doanh nghiệp nằm ngoài đặc khu kinh tế sang các doanh nghiệp ở trong đặc khu.
Mặt khác, chi phí quản lý thuế và hải quan cũng sẽ tăng lên, đặc biệt là ở các đặc khu có địa giới hành chính liền kề với với các khu vực không được áp dụng ưu đãi. Các chính sách ưu đãi được đề xuất trong dự thảo luật đều là những ưu đãi dựa trên lợi nhuận mà nhiều quốc gia đang phát triển đã không sử dụng nữa.
Bà Nguyễn Thu Hương lấy ví dụ như Jamaica đã loại bỏ ưu đãi thuế dựa trên lợi nhuận theo ngành từ năm 2013. Ấn Độ bỏ ưu đãi thuế dựa trên lợi nhuận, thay vào đó sử dụng ưu đãi thuế dựa trên đầu tư từ năm 2009. Ai Cập bỏ các loại ưu đãi về thời gian miễn thuế từ năm 2005 mà không hề có tác động tiêu cực tới đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Ai Cập tăng gấp đôi năm 2006 so với năm 2005.
Theo báo cáo Cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới (2017-2018), ba yếu tố quan trọng nhất được công ty lựa chọn không phải ưu đãi thuế, mà là cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực và ổn định xã hội.
Bên cạnh đó, theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, 85% các nhà đầu tư ở Việt Nam khi được hỏi khẳng định các chính sách ưu đãi thuế là không cần thiết.
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, Trưởng Bộ môn Quản trị Tài chính quốc tế, Học viện Tài chính đặt câu hỏi: “Chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam vốn đã cao so với các nước trong khu vực, nếu chúng ta lại có ưu đãi thuế nữa cho các đặc khu kinh tế thì cộng đồng quốc tế sẽ nghĩ gì về chính sách thuế của Việt Nam và họ sẽ cư xử như thế nào với chúng ta trong các hoạt động quốc tế”.
Bên cạnh đó, theo ông Thịnh, việc Việt Nam có những ưu đãi với công nghệ cao, trung tâm nghiên cứu là hoàn toàn mang tính chất định tính chứ không có tính định lượng.
Ông Thịnh cho rằng, Chính phủ, Bộ Tài chính và cơ quan thuế cần nghiên cứu, rà soát lại toàn bộ những ưu đãi đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để từ đó có những chính sách phù hợp với cái chung trên thế giới.
“Việc chuyển giá đã rất trầm trọng ở Việt Nam trong thời gian qua, nếu chúng ta tạo ra những vùng trũng về mặt chính sách thuế, thì chuyển giá có thể sẽ tiếp tục trở thành bệnh nan y không chỉ là đối với thuế, mà trở thành bệnh nan y với cả nền kinh tế. Các doanh nghiệp sẽ tiếp tục tìm mọi cách để chuyển giá dưới các hình thức khác nhau”, ông Thịnh lo ngại.
Chuyên gia kinh tế cao cấp Lưu Bích Hồ cho rằng, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã bỏ những ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, mà cố gắng tạo ra một mặt bằng chung với cơ chế thông thoáng, để từ đó tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp đầu tư.
Ông Henrique Alencar, Tư vấn chính sách về Thuế và Bất bình đẳng, tổ chức Oxfam Novib nêu quan điểm, những ưu đãi thuế với đặc khu dẫn đến giảm thu ngân sách, thậm chí dẫn đến thâm hụt ngân sách. Điều này dẫn đến việc, có thể Chính phủ sẽ phải cắt giảm các chương trình đầu tư cho giáo dục, y tế, các chương trình phúc lợi hoặc phải cắt giảm ưu đãi ở những khu vực không được ưu đãi.
“Hơn nữa, những chính sách ưu đãi kéo dài nhiều chục năm thì những thất thoát có thể nhiều hơn so với dự đoán của người làm chính sách, vì vậy cần tính toán rõ ràng”, ông Henrique Alencar nói.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục