Cổ phần hóa - Cầu nối đến tương lai

21:27' - 02/04/2016
BNEWS Theo các chuyên gia, cổ phần hóa/tư nhân hoá là một xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, tự do hoá và hội nhập của hầu hết quốc gia trên thế giới.
Doanh nghiệp vốn được coi là “tế bào” của một nền kinh tế nên doanh nghiệp có khỏe thì nền kinh tế mới mạnh. Ảnh minh họa: TTXVN

Trước xu thế hội nhập quốc tế và cạnh tranh quyết liệt trên toàn cầu, các doanh nghiệp, nhất là khối doanh nghiệp quốc doanh (thường đóng vai trò quan trọng và dẫn dắt) cần có sự chuẩn bị tốt nhất về vốn, nhân lực, công nghệ ..., để có thể vượt khó khăn và cạnh tranh sòng phẳng với nhiều đối thủ trên thế giới. 

Với tiêu chí “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, cổ phần hóa/tư nhân hóa là một tiến trình để giới doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung có thể huy động sức lực và của cải của xã hội để nâng cao chất lượng hoạt động, phát huy tối đa tiềm năng, phục vụ công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong dài hạn.  

Xu hướng tất yếu  

Cổ phần hóa/tư nhân hoá có nghĩa là chuyển giao quyền sở hữu hay quản lý từ khu vực công sang cho khu vực tư nhân thông qua việc bán tài sản hay cổ phần hoá các doanh nghiệp quốc doanh.

Về mặt chính sách, tư nhân hóa được gọi là “thị trường hoá”, có nghĩa là gỡ bỏ sự kiểm soát, chi phối của chính phủ và tuân theo nguyên tắc thị trường cạnh tranh.

Cải cách khu vực công bao gồm cả tư nhân hoá và cải cách các doanh nghiệp nhà nước đã trở thành chính sách kinh tế chủ yếu của nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển kể từ thập niên 1980, và ngày càng được lan rộng với những hiệu ứng tích cực mà mà nó mang lại. 

Theo các chuyên gia, cổ phần hóa/tư nhân hoá là một xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, tự do hoá và hội nhập của hầu hết quốc gia trên thế giới.

Các chương trình tư nhân hoá đã diễn ra ở nhiều nước trên thế giới trong những năm qua có thể được chia làm ba nhóm chủ yếu sau:

- Thứ nhất, các chương trình tư nhân hoá được thực hiện ở các nền kinh tế chuyển đổi ở Trung Âu và Đông Âu sau năm 1989 (quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường).

- Thứ hai, các chương trình cổ phần hóa/tư nhân hoá được thực hiện ở các nước đang phát triển dưới tác động của các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).

- Thứ ba, các chương trình tư nhân hoá do chính phủ các nước phát triển tiến hành, điển hình nhất là New Zealand và Vương quốc Anh vào thập niên 1980 và 1990. 

Vương quốc Anh đã tư nhân hóa các sân bay thương mại từ năm 1987, khi bán một phần tài sản của công ty quốc doanh British Airports Authority (BAA), điều hành bảy sân bay lớn, trong đó có Heathrow và Sân bay Gatwick ở London.

Tư nhân hóa BAA là một thành công trong kế hoạch tư nhân hóa của Vương quốc Anh, cho dù một số ý kiến cho rằng việc bán cùng một lúc bảy sân bay của BAA đã khiến chính phủ nước này không bán được mức giá tốt nhất có thể. 
Khi hầu hết cảng hàng không và sân bay tại châu Âu và Mỹ đều do tư nhân sở hữu thì xu hướng này mới bắt đầu lan sang châu Á và các nước đang phát triển. 

Trung Quốc cũng đi theo xu hướng này bằng việc tư nhân hóa Sân bay Quốc tế Bắc Kinh, trong đó 35% vốn tư nhân, 10% vốn của tập đoàn ADP-M (Pháp) còn phần còn lại thuộc về Chính phủ Trung Quốc. 

Trong khi đó, một số nước tại khu vực Đông Nam Á cũng đi theo xu hướng tư nhân hóa các sân bay thương mại. 

Tại Thái Lan, các sân bay ở Koh Samui, Sukhothai, Trad là do Hãng hàng không Bangkok Airways đầu tư. Campuchia đã nhượng quyền quản lý, khai thác ba sân bay lớn nhất tại Phnom Penh, Siem Reap và Sihanoukville cho ADP-M.  

Máy bay của hãng Bangkok Airways. Ảnh minh họa: bangkokairways.com

Cầu nối tới tương lai 

Cải cách và tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước (SOE) diễn ra rất mạnh mẽ ở Hàn Quốc kể từ thập niên 1960. 

Chương trình cải cách SOE toàn diện và thành công nhất đã được Chính phủ Hàn Quốc tiến hành sau khi cuộc khủng hoảng tài chính giai đoạn 1997-1998 xảy ra. 

Tuy vậy, bên cạnh những thành công, Hàn Quốc cũng gặp phải không ít thách thức khó khăn trong quá trình thực hiện cải cách. Giới chuyên gia cho rằng Hàn Quốc cần phải tiếp tục đẩy mạnh tư nhân hoá và cải cách các SOE chứ không nên sớm hài lòng với những kết quả ban đầu.
Trong khi đó, tư nhân hoá lĩnh vực khai thác dầu ở Nga nhận được các ý kiến trái chiều. Một vài ý kiến cho rằng tư nhân hoá khai thác dầu đã chuyển độc quyền từ tay nhà nước sang tư nhân, đưa tài nguyên quốc gia và tạo lợi nhuận lớn cho các chủ sở hữu tư nhân.

Số lợi nhuận của các chủ sở hữu tư nhân tương đương khoảng 1/3 tổng thu ngân sách liên bang, trong khi ngân sách của Chính phủ Nga dành cho các vấn đề cơ bản của xã hội như y tế, giáo dục, lương hưu..., lại rất hạn.

Tuy vậy, cũng có ý kiến khác cho rằng chính tư nhân hoá đã buộc các công ty Nga phải cạnh tranh quốc tế, qua đó những doanh nghiệp này phải nỗ lực thu hút và tăng cường vốn đầu tư, cải tiến công nghệ và cơ cấu và phương thức quản lý, quản lý. Nhờ vậy, các doanh nghiệp Nga đã có sự cải thiện đáng chú ý về mức độ hiệu quả hoạt động. 
Trong khi đó, trước thập niên 1990, kinh tế Cộng hòa Czech là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Sau đó, CH Czech đã triển khai tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước với hơn 80% tài sản của nhà nước đã thuộc về tư nhân. Quá trình này đã góp phần đưa CH Czech trở thành nền kinh tế phát triển hơn so với giai đoạn trước.

Như vậy, cổ phần hóa/tư nhân hóa có thể mang lại những lợi ích cho nền kinh tế nói chung và giới doanh nghiệp nới riêng như tăng cường tính cạnh tranh quốc gia khi môi trường công nghệ và kinh tế thay đổi đòi hỏi phải có sự đổi mới từ SOE.

Bên cạnh đó, các nhà đầu tư nước ngoài cũng tích cực tham gia chương trình cổ phần hóa/tư nhân hoá bao gồm việc chuyển giao công nghệ, tiếp nhận kỹ năng quản lý tiên tiến, tạo việc làm, và nâng cao tính minh bạch trong hoạt động quản lý./. 

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục