Thúc đẩy liên kết doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp FDI

22:01' - 03/07/2018
BNEWS Chủ đề mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đặt ra nhiều vấn đề về cơ cấu doanh nghiệp.
Hội đồng quản trị Liên minh VBF tổ chức buổi họp báo trao đổi với 2 vị Đồng Chủ tịch VBF là ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và ông Tomaso Andreatta, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu (Euro Cham) về một số vấn đề liên quan tới hội nhập và nội dung, chương trình nghị sự của Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ 2018. Ảnh: Thạch Huê/BNEWS/TTXVN

Trước thềm Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF) sẽ diễn ra vào ngày mai 4/7, chiều 3/7 tại Hà Nội, Hội đồng quản trị Liên minh VBF tổ chức buổi họp báo trao đổi với 2 vị Đồng Chủ tịch VBF là ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và ông Tomaso Andreatta, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu (Euro Cham) về một số vấn đề liên quan tới hội nhập và nội dung, chương trình nghị sự của Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ 2018.

Chủ đề của diễn đàn lần này là "Liên kết doanh nghiệp trong nước và nước ngoài hướng tới lợi ích chung" với 3 phiên họp chính, bao gồm: Tiến tới chuỗi giá trị; Giải quyết những thách thức về công nghệ và Phát triển nguồn lực tài chính phục vụ tăng trưởng bền vững.

Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam là một cơ chế đối thoại liên tục, chặt chẽ giữa Chính phủ Việt Nam với cộng đồng các doanh nghiệp trong nước và quốc tế, nhằm cải thiện các điều kiện kinh doanh cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của khối doanh nghiệp tư nhân, thuận lợi hóa môi trường đầu tư và đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế bền vững của Việt Nam.

Theo ông Tomaso, chủ đề mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đặt ra nhiều vấn đề về cơ cấu doanh nghiệp; các doanh nghiệp trong nước thường có quy mô quá nhỏ và quá thiếu kiến thức, cũng như kinh nghiệm trong việc bán sản phẩm cho khách hàng có thị trường toàn cầu hay những sản phẩm chất lượng hàng đầu với giá thành hợp lý...

Đó cũng là lý do vì sao đa phần doanh nghiệp FDI hiện đang phải đưa các nhà cung cấp từ bên ngoài vào Việt Nam thay vì đưa các công ty Việt Nam tăng tốc ở nhiều cấp độ. Chính vì thế, các công ty Việt Nam cần có trình độ quản lý cấp quốc tế, hay tập trung nâng cao trình độ quản trị và cần có sự hỗ trợ của các trường đào tạo, các công ty dịch vụ, ngân hàng, bảo hiểm, công nghệ.... mà những điều này lại không thực sự dễ dàng đến được đây bởi những rào cản về pháp lý hiện nay.

Thực tế, nhiều công ty nước ngoài còn quan ngại về những vấn đề liên quan tới bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp hay gần hơn là những hậu quả có thể xảy đến do Luật An ninh mạng mới. Do đó, Chính phủ Việt Nam có thể làm được rất nhiều việc để cải thiện vấn đề này, ông Tomaso nêu rõ.

Cùng có chung quan điểm, ông Lộc cho rằng, vấn đề cải cách thể chế kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh là biện pháp mà Việt Nam luôn có thể chủ động thực hiện, luôn luôn khả thi và ít tốn kém chi phí trong khi hiệu quả lại rất đáng kể, đặc biệt trong thúc đẩy xuất nhập khẩu; tận dụng cơ hội mới về thương mại và đầu tư.

Qua tổng hợp của VCCI, mặc dù Chính phủ đã có những biện pháp quyết liệt để cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh nhưng trên thực tế không phải tất cả các bộ, ngành, các địa phương đều có hành động cụ thể và thực chất.

Ông Lộc nêu cụ thể, sau 4 năm đưa vào thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia, cơ chế nền tảng để hiện đại hóa và cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu, nhưng mới chỉ triển khai được 47/245 thủ tục (chiếm 19% tổng số thủ tục xuất nhập khẩu). Trong số 47 thủ tục đã được thực hiện, không ít trường hợp chưa điện tử hóa đồng bộ, thậm chí còn gây khó khăn hơn cho doanh nghiệp.

Hay như về cải cách trong lĩnh vực kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Sau 3 năm thực hiện cải cách, kết quả đạt được chưa đáp ứng được kỳ vọng. Số mặt hàng được loại khỏi diện kiểm tra chuyên ngành chỉ chiếm chưa đầy 6%.

Trong số 164 Danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành thì có tới 63 danh mục chưa được các bộ, ngành ban hành chính thức, chưa chỉ rõ mã HS từng mặt hàng, hoặc có mã HS nhưng chưa phù hợp... Thời gian cho kiểm tra chuyên ngành trung bình vẫn là 76 giờ/thủ tục, cao hơn đến ba lần so với các nước ASEAN-4.

Còn nữa, ông Lộc nêu rõ, Chính phủ yêu cầu tất cả các bộ, ngành phải cắt giảm, đơn giản hóa 50% các điều kiện kinh doanh.

Nhưng cho đến thời điểm này, mới chỉ có Bộ Công Thương đã soạn thảo và trình Chính phủ Nghị định theo yêu cầu. 4 bộ khác là Nông nghiệp, Xây dựng, Tài chính, Y tế đã soạn thảo Nghị định, gửi VCCI lấy ý kiến doanh nghiệp.

Còn lại các bộ khác đang làm gì, làm tới giai đoạn nào, giải pháp cắt giảm có phù hợp không thì doanh nghiệp không được biết, cũng không được tham gia ý kiến.

Từ thực tế này, ông Lộc cho rằng, Chính phủ cần sớm chỉ đạo các bộ, ngành thường xuyên thông tin, tham vấn ý kiến và tập hợp kiến nghị từ cộng đồng doanh nghiệp; khắc phục tình trạng thanh tra kiểm tra tràn lan; giảm bớt gánh nặng về điều kiện kinh doanh của rất nhiều lĩnh vực, mặt hàng... Cùng với đó, tăng cường cơ chế hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp trong việc thanh tra, kiểm tra.

Bên cạnh việc quyết liệt cải cách thủ tục hành hành chính, cải thiện thủ tục xuất nhập khẩu, thuế, hải quan và kiểm tra chuyên ngành... các bộ, ngành cũng cần tận dụng tối đa cơ hội từ việc rà soát các cam kết và thực thi các hiệp định thương mại thế hệ mới như CPTPP chẳng hạn.

Điều đó, sẽ tạo nên những đột phá trong cải cách toàn diện hệ thống pháp luật, thể chế kinh tế theo các chuẩn mực mới. Thực sự, sẽ mang lại nhiều cơ hội và triển vọng phát triển cho nền kinh tế Việt Nam trong nay mai./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục