Việt Nam đặt mục tiêu 100% người dân nông thôn dùng nước sạch vào năm 2045

16:32' - 16/10/2025
BNEWS Việt Nam phấn đấu đến năm 2030 có 80% và năm 2045 đạt 100% người dân nông thôn sử dụng nước sạch, đòi hỏi hoàn thiện chính sách, tăng đầu tư hạ tầng và nâng cao nhận thức cộng đồng về sử dụng nước.

Để đạt được mục tiêu đó, cần hoàn thiện cơ chế chính sách và huy động đầu tư xây dựng các công trình cấp nước tập trung quy mô lớn, đồng bộ, hiện đại cũng như nâng cao nhận thức của người dân về sử dụng nước sạch. Đây là nội dung được các đại biểu, chuyên gia thảo luận tại Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh” do Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức, ngày 16/10. 

Về nước sạch, ông Giáp Mai Thuỳ, Phó Trưởng phòng Quản lý Nước sạch nông thôn, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, công tác nước sạch nông thôn đã đóng vai trò quan trọng trong chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới ở các địa phương khi góp phần giúp cho hàng nghìn xã đạt chỉ tiêu về nước sạch. 

Trong giai đoạn 2021-2025, cả nước có 6.084/7.669 xã (79,3%) được công nhận đạt tiêu chuẩn nông thôn mới, 2.567 xã nông thôn mới nâng cao, 743 xã nông thôn mới kiểu mẫu. Đến nay, toàn quốc có 68% hộ dân nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn, gồm 60% số hộ sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn từ công trình cấp nước tập trung và 8% số hộ từ cấp nước hộ gia đình. Tuy nhiên, việc đảm bảo nước sạch ở nông thôn vẫn còn một số hạn chế, đặc biệt là thiếu nguồn lực đầu tư. Trong giai đoạn 2020-2024, tổng vốn đầu tư cho nước sạch nông thôn là 13.4000 tỷ đồng, thiếu gần 16.000 tỷ đồng so với nhu cầu. 

Để nâng cao tỷ lệ tiếp cận, sử dụng nước sạch khu vực nông thôn, ông Giáp Mai Thuỳ đề xuất cần hoàn thiện cơ chế, chính sách và đầu tư xây dựng các công trình cấp nước tập trung quy mô lớn, đồng bộ, hiện đại, ưu tiên cho các khu vực khan hiếm nước, vùng hạn hán, vùng sâu, vùng xa và hải đảo. Ở cấp địa phương, cần hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý cấp nước nông thôn theo mô hình chính quyền hai cấp, đồng thời rà soát, điều chỉnh giá nước phù hợp với thực tế. Bên cạnh đó, hướng dẫn người dân áp dụng các giải pháp thu, trữ nước an toàn tại hộ gia đình. 

 

Chia sẻ thực tế tại địa phương, ông Đặng Duy Quang, đại diện Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh An Giang cho biết, với 238 công trình cấp nước tập trung, phục vụ khoảng 665.000 hộ dân. Quá trình triển khai các dự án nước sạch vẫn gặp nhiều vướng mắc do tổ chức bộ máy địa phương chưa ổn định, thiếu sự phối hợp trong giải phóng mặt bằng, khiến nhiều công trình thi công chậm tiến độ. Bên cạnh đó, thủ tục cấp phép khoan và khai thác nước ngầm còn phức tạp, gây khó khăn cho việc đáp ứng nhu cầu cấp bách của người dân. Việc hơp nhất địa giới hành chính cũng dẫn tới tình trạng quản lý thiếu thống nhất, trong khi cấp xã chưa có cán bộ chuyên trách về nước sạch và môi trường, chủ yếu kiêm nhiệm nên hiệu quả chưa cao. 

“Nhiều công trình tại khu vực An Giang cũ đã xuống cấp, hết công suất nhưng chưa được đầu tư nâng cấp; trong khi một số địa phương chưa quan tâm đúng mức đến lĩnh vực này, khiến tỷ lệ cấp nước sạch chưa thật sự bền vững. Một trong những khó khăn hiện nay là tỉnh vẫn chưa bổ sung các thủ tục hành chính liên quan đến nước sạch nông thôn, dù trước đó Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã công bố danh mục đủ điều kiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến”, ông Đặng Duy Quang thông tin thêm. 

Ở góc độ quy hoạch, ông Phạm Văn Mạnh, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam cho biết, qua kết quả khảo sát và đánh giá thực tế tại Đồng bằng sông Cửu Long có thể thấy công tác cấp nước sạch nông thôn hiện còn nhiều bất cập, đặc biệt là ở khâu quy hoạch, quản lý khai thác và giám sát nguồn nước. Việc quản lý quy hoạch cấp nước ở nhiều địa phương vẫn chưa đồng bộ; một số khu vực đô thị hóa nhanh khiến hệ thống cấp nước không theo kịp nhu cầu. Việc giám sát chất lượng nước, theo dõi khai thác chưa được triển khai đầy đủ, nhiều địa phương chưa xây dựng phương án tổng thể cho cấp phép khai thác, dẫn đến khó khăn trong điều hành, nhất là trong bối cảnh hạn hán và xâm nhập mặn diễn biến phức tạp.

Thực tế cho thấy, tại một số vùng như Cà Mau, người dân vẫn phải sử dụng nước mưa hoặc nước trữ tạm thời. Một số tỉnh như Bến Tre, Cà Mau, Hậu Giang đã đầu tư xây dựng hồ chứa phân tán, song quy mô còn nhỏ, chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Theo ông Phạm Văn Mạnh, trong giai đoạn 2015-2016, hạn hán và xâm nhập mặn đã khiến hơn 200.000 hộ dân Đồng bằng sông Cửu Long thiếu nước sinh hoạt. Tuy nhiên, nhờ chủ động xây dựng kế hoạch ứng phó, chuẩn bị từ sớm, đến các đợt hạn mặn 2019-2020 và 2023-2024, số hộ thiếu nước đã giảm còn vài chục nghìn. Điều đó cho thấy hiệu quả rõ rệt khi các địa phương chú trọng trong quy hoạch và phòng ngừa từ xa. 

Liên quan đến đầu tư và xã hội hóa trong lĩnh vực nước sạch nông thôn, ông Phạm Văn Mạnh cho rằng, đây là lĩnh vực khó thu hút doanh nghiệp bởi giá nước hiện còn thấp, trong khi chi phí đầu tư hạ tầng lớn, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. Cùng đó, ý thức tiết kiệm nước của người dân còn hạn chế, dẫn đến lãng phí trong sử dụng. 

“Đã đến lúc cần nhìn nhận nước là một yếu tố của nền kinh tế, chứ không chỉ là dịch vụ công ích. Việc phát triển kinh tế nước phải gắn với tư duy quản lý hiện đại, chuyển từ hành chính thụ động sang quản lý theo cơ chế thị trường. Điều này đòi hỏi hoàn thiện thể chế, chính sách và tính đúng, tính đủ giá nước, tương tự như biểu giá điện. Khi giá nước được phản ánh sát giá trị thật, mới có thể thu hút đầu tư tư nhân và khuyến khích người dân sử dụng tiết kiệm, hiệu quả hơn”, ông Phạm Văn Mạnh nêu quan điểm.

Bên cạnh đó, cần có công cụ kinh tế và chế tài môi trường, như thu phí xả thải hoặc thuế tài nguyên nước, để khuyến khích tiết kiệm và giảm ô nhiễm. Đồng thời, tăng cường ứng dụng công nghệ trong quản lý, giám sát khai thác, và nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị của nước - yếu tố sống còn trong thích ứng biến đổi khí hậu vùng Đồng bằn sông Cửu Long. 

 

Ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi nhấn mạnh: Lĩnh vực nước sạch nông thôn đã nhận được sự quan tâm và đầu tư đáng kể của Nhà nước cũng như xã hội trong những năm qua. Tuy vậy, hiện nay vẫn còn nhiều người dân nông thôn chưa tiếp cận được hệ thống cấp nước tập trung. Để đảm bảo chất lượng nước đồng bộ và bền vững, cần có thêm nhiều giải pháp, cùng sự quan tâm và đầu tư mạnh mẽ hơn nữa. 

Theo ông Lương Văn Anh, mục tiêu nâng tỷ lệ người dân nông thôn được dùng nước sạch lên 80% vào năm 2030 không chỉ là tiêu chí hoàn thiện về mặt hạ tầng mà còn là nhiệm vụ an sinh xã hội, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, nơi người dân vẫn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận nguồn nước an toàn. Để đạt mục tiêu này, cần có sự tham gia đồng bộ của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân; trong đó, trọng tâm là thu hút đầu tư xã hội hóa vào lĩnh vực cấp nước nông thôn.

Về phía các địa phương, cần chủ động thực hiện thống kê, định giá tài sản và kêu gọi nhà đầu tư đối với các công trình cấp nước đã xuống cấp. Đơn vị vận hành khai thác cũng chủ động bố trí kinh phí để đảm bảo hoạt động cấp nước không bị gián đoạn. Việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức đối với người dân trong việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nước sạch cũng rất quan trọng, góp phần thiết thực vào hoàn thành mục tiêu quốc gia về nước sạch cho khu vực nông thôn.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục