Doanh nghiệp dệt may linh hoạt ứng phó dịch COVID-19

16:08' - 02/04/2020
BNEWS Tập đoàn Dệt May Việt Nam, với hơn 120 nghìn nhân sự, quỹ chi lương khổng lồ mỗi tháng đang đứng trước những rủi ro lớn khi nhiều khách hàng đã hủy, tạm hoãn đơn hàng.

Trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19, các doanh nghiệp dệt may đang đối diện nhiều khó khăn khiến sản xuất kinh doanh và đời sống người lao động bị ảnh hưởng. Nói về giải pháp giúp doanh nghiệp dệt may vượt qua khó khăn ở thời điểm này, ông Lê Tiến Trường, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) cho hay, ưu tiên số một vẫn là giữ chân người lao động và bảo toàn lực lượng cho dù khó khăn.

Tập đoàn Dệt May Việt Nam, với hơn 120 nghìn nhân sự, quỹ chi lương khổng lồ mỗi tháng đang đứng trước những rủi ro lớn khi nhiều khách hàng đã hủy, tạm hoãn đơn hàng từ nửa cuối tháng 3/2020. Tập đoàn này dự báo, nếu dịch không sớm kiểm soát, chắc chắn các doanh nghiệp với trên 90% sản lượng cho xuất khẩu của Vinatex sẽ không khỏi ảnh hưởng. Trước mắt, hầu hết các doanh nghiệp sẽ thiếu từ 30-50% việc làm trong tháng 4 và tháng 5/2020.

Do lượng nhân sự đông đảo, chỉ cần 3 tháng không có việc làm, mà vẫn duy trì trả lương cho toàn bộ lực lượng lao động, thì các doanh nghiệp dệt may sẽ cạn vốn. Làm thế nào để doanh nghiệp không phá sản, người lao động không mất việc làm? Đó là một thách thức chưa có tiền lệ đặt ra cho Vinatex lúc này.

Ông Lê Tiến Trường, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt May Việt Nam nhấn mạnh, với mục tiêu “Người lao động là trung tâm của sự phát triển doanh nghiệp” và truyền thống văn hóa qua hơn một thế kỷ “Đoàn kết là sức mạnh”, Vinatex và các doanh nghiệp thành viên cùng đội ngũ người lao động sẽ đồng sức, đồng lòng vượt qua "cơn bão".

Theo Tổng giám đốc Vinatex, Tập đoàn đang tìm các giải pháp tích cực để hạn chế tối đa việc phải giảm bớt lao động ở các đơn vị. Tiếp đó là đảm bảo việc làm cho người lao động, không ai bị mất việc làm, trong khi không để doanh nghiệp bị phá sản. Tập đoàn sẽ đi theo các phương án: không tăng giờ làm; nghỉ 2 ngày/tuần và nếu khó khăn nữa thì có thể phải giảm cả số ngày làm việc của công nhân với mục tiêu duy trì số lượng người lao động.

Vinatex cam kết giữ việc làm và trả lương duy trì đời sống cho người lao động, bằng cách tận dụng các gói hỗ trợ từ Chính phủ, các nguồn vay ngân hàng, tìm kiếm những hợp đồng mới bù đắp lượng việc làm thiếu hụt do nhiều đơn hàng bị hủy, hoãn.

Đồng thời, Tập đoàn tổ chức lại sản xuất tận dụng thời gian để sáng tạo, tái cấu trúc, tiết kiệm chi phí, thay đổi phương thức làm việc hiệu quả hơn.

Ông Lê Tiến Trường cho biết thêm, trước những khó khăn do ảnh hưởng dịch bệnh, các doanh nghiệp đã thực hiện nhiều giải pháp để tránh bị phá sản.

Trong 2 tháng qua, doanh nghiệp đã sản xuất những mặt hàng chưa bao giờ làm như khẩu trang phòng dịch, tiến tới là khẩu trang y tế, quần áo phòng dịch, quần áo dành cho bệnh viện và y bác sĩ. Những sản phẩm mới này vừa kịp thời phục vụ xã hội nhưng cũng là một phần nhỏ bù đắp thiếu hụt đơn hàng trong thời gian này.

Nhiều doanh nghiệp đã thử nghiệm làm việc từ xa - việc tưởng chừng không thể thực hiện với ngành “con mọn” như ngành dệt may, từ đó mở ra khả năng mới cho mô hình hoạt động linh hoạt, chi phí thấp của bộ phận dịch vụ, chăm sóc khách hàng.

Hiện có một số doanh nghiệp chọn phương án sa thải nhân viên, nhưng số khác vẫn đảm bảo công nhân có việc làm nhưng giảm giờ làm của từng cá nhân. Có doanh nghiệp vận động người có điều kiện tốt hơn nghỉ không lương nhường công việc cho đồng nghiệp.

Nhiều lãnh đạo doanh nghiệp làm gương, quyết định tất cả lãnh đạo cấp cao nhất sẽ giảm 30% thu nhập. Sau đó đến đội ngũ quản lý cấp trung, tiếp theo đến nhân viên. Phương án cuối cùng mới thực hiện sa thải nhân viên.

"Khủng hoảng chính là lúc doanh nghiệp nhìn lại và củng cố triết lý kinh doanh của mình. Trong lúc này, đội ngũ người lao động dệt may cũng chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, thể hiện sự gắn kết bằng san sẻ việc làm, cho dù việc ít, lương giảm, nhưng vẫn làm việc với năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt nhất và tin tưởng vào sự phục hồi, phát triển mạnh mẽ của doanh nghiệp khi “cơn bão” qua đi". - ông Trường nói.

Ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Tổng công ty may Hưng Yên cho biết, do dịch bệnh COVID-19, gần 30% đơn hàng của may Hưng Yên đã bị phía đối tác huỷ hoặc giãn thời hạn giao hàng.

Khó khăn là vậy, theo ông Nguyễn Xuân Dương, công ty vẫn cố gắng duy trì để không công nhân nào mất việc làm. Giải  pháp tạm thời là giảm giờ làm cho công nhân vào ngày nghỉ; đồng thời, sắp xếp cho công nhân làm luân phiên, chuyển một số dây chuyền sang may khẩu trang kháng khuẩn. Công ty đã sắp xếp lại dây chuyền may, đào tạo công nhân về kỹ thuật, cũng như chuyển giao thiết kế tới phân xưởng trong Tổng Công ty để chuyển sang may khẩu trang.

Nói về giải pháp giúp doanh nghiệp dệt may vượt qua khó khăn ở thời điểm này, ông Thân Đức Việt, Tổng Giám đốc Tổng Công ty May 10 mong muốn, Chính phủ, ngoài chính sách giảm lãi, giảm thuế, giãn nợ thì hỗ trợ tiền lương cho người lao động ở các doanh nghiệp sử dụng nhiều người lao động như doanh nghiệp dệt may da giầy.

Từ đầu năm, khi dịch bệnh COVID-19 mới bùng phát ở Trung Quốc, doanh nghiệp dệt may Việt Nam bị ảnh hưởng tiêu cực do nguyên liệu đầu vào chủ yếu nhập từ thị trường này. Khi Trung Quốc công bố kiểm soát được dịch bệnh, nguyên phụ liệu nhập về thuận tiện, hoạt động sản xuất trở lại bình thường thì liên tiếp các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Italy, Mỹ và châu Âu lần lượt bùng phát dịch đã khiến các đơn hàng đến thị trường này gặp rào cản lớn. 

Biến động này tiếp tục gây bất lợi tới ngành dệt may Việt Nam. Mỹ và châu Âu là 2 thị trường nhập khẩu hàng dệt may, giày dép lớn nhất của Việt Nam. Số liệu Tổng cục Hải quan cho thấy, 2 thị trường này chiếm 58,4% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả nước, tương ứng giá trị 19,2 tỷ USD năm 2019. Dịch lan rộng, Mỹ và châu Âu phải gồng mình đối phó khiến nhu cầu giảm sút, nhiều đơn hàng dệt may theo đó bị hủy.

Ông Lê Tiến Trường, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt May Việt Nam cho rằng đây là phản ứng của các nhà nhập khẩu do hiện tượng tại Mỹ và châu Âu đang hạn chế đi lại, tiếp xúc, các trung tâm thương mại giảm thời gian hoạt động thậm chí đóng cửa, kênh phân phối bị thắt chặt và khả năng nhu cầu tiêu dùng của các thị trường này đều thấp đi./. 

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục