Doanh nghiệp Việt vượt thách thức chuyển đổi xanh hướng tới Net Zero

16:29' - 19/08/2025
BNEWS Nhiều doanh nghiệp Việt đang vượt ra nhiều thách thức chuyển đổi xanh để đưa ra những sản phẩm công nghiệp đạt tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng yêu cầu cả thị trường nội địa lẫn toàn cầu.

Trong bối cảnh tốc độ đô thị hóa ngày càng gia tăng và Việt Nam đặt mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050, đòi hỏi doanh nghiệp minh bạch hóa thông tin liên quan đến tác động môi trường là xu hướng tất yếu.

Theo đó, nhiều doanh nghiệp Việt đang vượt ra nhiều thách thức chuyển đổi xanh để đưa ra những sản phẩm công nghiệp đạt tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng yêu cầu cả thị trường nội địa lẫn toàn cầu.

Ghi nhận thực tế, mặc dù tùy chiến lược mà mỗi doanh nghiệp có sự chủ động trong kế hoạch quản trị công ty, nhưng nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước tại Việt Nam đã cho thấy sự linh hoạt đầu tư theo lĩnh vực sản xuất tiềm năng và có cơ hội thị trường.

Điển hình, ông Trần Bình Minh, Đồng sáng lập, kiêm Phó Tổng giám đốc Công ty CP GCool phân tích, công ty tập trung lĩnh vực năng lượng xanh không chỉ “Made in Vietnam” mà còn xây dựng mạng lưới phân phối và để đạt được kết quả như hiện nay thì công ty đã đầu tư tài chính “khủng” cho công nghệ.

Ông Trần Bình Minh cũng cho biết, để từ ý tưởng nghiên cứu và phát triển cho đến đưa ra được sản phẩm đầu cuối là giai đoạn quan trọng hàng đầu mà doanh nghiệp phải vượt qua nhiều thách thức. Khi có sản phẩm rồi thì bước tiếp theo là phải xây dựng và hoàn thiện từng bước chuỗi cung ứng, cũng là giai đoạn không ngừng tối ưu hóa sản phẩm để chinh phục thị trường, nhất là tham gia chuỗi cung ứng của doanh nghiệp nội địa lẫn FDI hay toàn cầu.

 

Cùng quan điểm, ông Hồ Ngọc Toàn, Phó tổng giám đốc Công ty CP Thiết bị và Giải pháp cơ khí Automech chỉ ra rằng, khi cung cấp một sản phẩm máy móc, thiết bị cho khách hàng thì đơn vị thương mại nào cũng có thể cung cấp được, nhưng để chứng minh cho khách hàng sản phẩm máy móc, thiết bị đó có thể vận hành trong dây chuyền sản xuất ra sản phẩm đầu cuối thì cần đầu tư lĩnh vực nghiên cứu và phát triển. Nghiên cứu và phát triển cũng là lĩnh vực giúp doanh nghiệp gia tăng giá trị thương hiệu, sản phẩm, nhằm từng bước chen chân vào chuỗi cung ứng công nghiệp hỗ trợ cho nhiều nhóm ngành công nghiệp sản xuất khác.

“Hơn thế nữa, tham gia ngành sản xuất thì sản phẩm phải đảm bảo nhiều tiêu chuẩn không chỉ tại thị trường nội địa mà cả quốc tế, còn doanh nghiệp cần nguồn nhân lực và quản trị nhân sự hiệu quả. Đối với quản trị doanh nghiệp, vấn đề chuyển đổi tư duy trong nhận thức sản xuất đáp ứng yêu cầu khách hàng đòi hỏi tập trung chất lượng và tiến độ”, ông Hồ Ngọc Toàn nhấn mạnh.

Riêng ở góc độ doanh nghiệp FDI, ông Burin Udomsub, Tổng giám đốc Công ty TNHH VLXD Xi măng SCG Việt Nam chia sẻ, trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị triển khai lộ trình dán nhãn năng lượng cho vật liệu xây dựng, SCG đã tiên phong và chủ động đón đầu xu hướng bằng cách mở rộng danh mục sản phẩm xanh; trong đó xi măng tiếp tục là sản phẩm chiến lược. Nhờ đó, SCG Việt Nam vừa ghi dấu một bước tiến quan trọng trong hành trình phát triển bền vững khi 19 dòng sản phẩm xi măng chủ lực của doanh nghiệp tại Việt Nam chính thức đạt chứng nhận Tuyên bố sản phẩm môi trường (EPD – Environmental Product Declaration) theo tiêu chuẩn quốc tế.

Phát triển bền vững là trọng tâm chiến lược của SCG, được cụ thể hóa bằng việc áp dụng các tiêu chuẩn xanh quốc tế như EPD nhằm minh bạch hóa thông tin môi trường sản phẩm thông qua tối ưu công nghệ, giảm phát thải carbon… Ông Burin Udomsub cũng nhận định, với 19 dòng xi măng chủ lực đạt chứng nhận EPD không chỉ giúp khách hàng dễ dàng lựa chọn vật liệu thân thiện với môi trường, mà còn nâng cao uy tín thương hiệu trên cả thị trường trong nước và quốc tế; đồng thời góp phần thúc đẩy xu hướng xanh hóa ngành vật liệu xây dựng tại Việt Nam.

Ngoài tiêu chuẩn sản phẩm và giá trị thương hiệu, bài toán xuất xứ trong giao thương quốc tế cũng là một trong những rào cản lớn nhất mà doanh nghiệp cần vượt qua, cụ thể quy tắc xuất xứ là yếu tố then chốt để doanh nghiệp có thể tiếp cận những ưu đãi thuế quan. Trong bối cảnh môi trường thương mại toàn cầu ngày càng phức tạp, Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) đã trở thành công cụ không thể thiếu giúp doanh nghiệp đảm bảo tuân thủ quy định, tận dụng ưu đãi thuế quan và xây dựng niềm tin với đối tác quốc tế.

Thống kê, chỉ riêng trong năm 2024, Việt Nam đã cấp hơn 1,8 triệu C/O ưu đãi và tương đương giá trị xuất khẩu trên 100 tỷ USD. So với năm 2023, con số này tăng 18% về lượng và 28% về giá trị, chiếm khoảng 28% tổng kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường có Hiệp định Thương mại tự do (FTA). Từ tháng 5/2025, Việt Nam đã tập trung hóa quy trình cấp C/O và đang hướng đến xây dựng một nền tảng kỹ thuật số quốc gia để thúc đẩy hơn nữa dòng chảy thương mại.

Trước bối cảnh thị trường thương mại toàn cầu diễn biến phức tạp như hiện nay, một số chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần tăng cường kiểm soát xuất xứ nguồn gốc sản phẩm để ứng phó thuế chống phá giá; cải thiện sản xuất trong nước và khả năng cạnh tranh bằng nâng cao năng lực nội tại. Về phía Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI), ngay từ năm 2025 đã thành lập Ban tự động hóa để tiên phong thúc đẩy đầu tư quốc tế, tập hợp cộng đồng doanh nghiệp các địa phương hình thành chuỗi cung ứng nội địa phục vụ thị trường toàn cầu, đây cũng là một trong những hoạt động hiện thực hóa Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.

Theo bà Trương Thị Chí Bình, Phó Chủ tịch, kiêm Tổng Thư ký VASI, từ nhiều năm đã triển khai đa dạng chương trình hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, nhưng quan điểm của VASI là mỗi doanh nghiệp phải chủ động tối ưu hóa sản xuất để tối ưu hóa chi phí. Ngoài hỗ trợ tìm khách hàng, xuất khẩu…, gần đây VASI đẩy mạnh xúc tiến đầu tư nước ngoài cho doanh nghiệp, bởi không ít người mua hàng đánh giá sản phẩm sản xuất tại Việt Nam cạnh tranh hơn hàng hóa một số nước trong khu vực.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục