Gian nan mục tiêu giảm khí thải toàn cầu

15:00' - 22/03/2022
BNEWS Theo Trung tâm Nghiên cứu biến đổi khí hậu Tyndall , việc các nước giàu muốn sớm loại bỏ nhiên liệu hóa thạch có thể đe dọa sự ổn định chính trị ở các nước nghèo hơn.

Đây là nội dung báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu biến đổi khí hậu Tyndall công bố ngày 22/3, trước thềm hội nghị kéo dài 2 tuần của gần 200 quốc gia về việc giảm phát thải khí CO2.
* Tình huống cấp bách        
Theo Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu năm 2015, các bên tham gia đã cam kết hành động để giới hạn đà tăng nhiệt độ toàn cầu ở mức dưới 2 độ C và ở mức 1,5 độ C nếu khả thi. Kể từ đó, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện cùng với thực tế rằng thế giới đã trải qua những hiện tượng thời tiết cực đoan gây chết người, cho thấy mục tiêu kiềm chế sự tăng nhiệt độ Trái Đất ở mức 1,5 độ C là ngưỡng an toàn hơn cho toàn cầu hiện nay.
Báo cáo trên chỉ ra rằng sản lượng khai thác nhiên liệu hóa thạch của một số quốc gia nghèo hơn dù chỉ chiếm một phần nhỏ sản lượng của thế giới nhưng họ lại phụ thuộc vào nguồn thu nhập từ đó. Do đó, việc nhanh chóng loại bỏ nguồn thu từ nhiên liệu hóa thạch của các nước nghèo hơn có thể đe dọa sự ổn định chính trị ở những quốc gia này.
Các nước như Nam Sudan, Congo, Gabon có rất ít nguồn thu từ các lĩnh vực kinh tế khác ngoài khí đốt và dầu mỏ. Ngược lại, các quốc gia giàu có vốn là những nhà khai thác nhiên liệu hóa thạch lớn sẽ vẫn giàu có ngay cả khi không còn nguồn thu nhập từ chúng. Ví dụ, nguồn thu từ dầu khí đóng góp 8% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Mỹ, nhưng GDP bình quân đầu người của nước này sẽ vẫn khoảng 60.000 USD, cao thứ 2 thế giới dù không tính nguồn thu từ nhiên liệu hóa thạch.
Tác giả chính của báo cáo trên, Giáo sư về năng lượng và biến đổi khí hậu tại Đại học Manchester (Anh), ông Kevin Anderson cho biết hiện có 88 quốc gia trên thế giới khai thác dầu khí. Các chuyên gia đã tính toán những thời điểm loại bỏ phát thải khí CO2 cho tất cả những quốc gia này phù hợp với những mục tiêu đặt ra trong Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu năm 2015.
Theo đó, họ nhận thấy rằng để có 50/50 cơ hội hạn chế sự tăng nhiệt độ Trái Đất ở mức 1,5 độ C, 19 quốc gia có GDP bình quân đầu người trên 50.000 USD (không tính thu nhập từ dầu khí) cần phải chấm dứt hoạt động khai thác vào năm 2034. Trong nhóm này có Mỹ, Na Uy, Anh, Canada, Australia và Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE).
Tiếp sau đó, 14 quốc gia khác có GDP bình quân đầu người khoảng 28.000 USD (không tính thu nhập từ dầu khí) cần ngừng hoạt động khai thác vào năm 2039. Nhóm này bao gồm Saudi Arabia, Kuwait và Kazakhstan.

Nhóm quốc gia tiếp theo gồm Trung Quốc, Brazil và Mexico cần loại bỏ nguồn thu nhập từ dầu mỏ và khí đốt vào năm 2043. Sau đó đến các nước như Indonesia, Iran và Ai Cập vào năm 2045. Chỉ có những quốc gia khai thác dầu khí nghèo nhất như Iraq, Libya và Angola có thể tiếp tục hoạt động này đến năm 2050.
Khi ký kết Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu hồi năm 2015, các nước đã chấp nhận rằng những quốc gia giàu có cần thực hiện những bước đi lớn hơn và nhanh hơn trong việc giảm phát thải khí CO2, đồng thời hỗ trợ tài chính để giúp những nước nghèo hơn giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Quy định này cũng được áp dụng đối với hoạt động sản xuất điện than.
Liên hợp quốc (LHQ) cũng đã kêu gọi các nước giàu thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dần loại bỏ sử dụng than đá vào năm 2030, trong khi phần còn lại của thế giới là vào năm 2040.
* Thách thức lớn

Việc buộc các công ty dầu mỏ lớn trên thế giới cắt giảm khí thải sẽ không cứu được hành tinh trước những tác động của biến đổi khí hậu.
Các công ty dầu mỏ lớn khai thác hàng triệu thùng dầu thô mỗi ngày, vận chuyển bằng những tàu chở dầu lớn, xử lý ở các khu liên hiệp các đường ống và các bể chứa, với lượng khí thải lớn trong khí quyển.
Những công ty này cần giảm lượng khí thải và góp phần vào quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch. Tuy nhiên, việc tập trung vào một số ít công ty hiện chiếm khoảng 10% sản lượng dầu thô toàn cầu mỗi ngày sẽ không đảo ngược được sự gia tăng lượng khí thải.
Các tập đoàn dầu mỏ lớn nhất thế giới không dễ chịu khuất phục trước các sức ép từ các cổ đông như đã thấy đối với Exxon Mobil Corp. và Chevron Corp. gần đây hay việc một tòa án của Hà Lan buộc Royal Dutch Shell PLC xem xét lại các kế hoạch cắt giảm khí thải. Đây là những công ty quốc doanh do nhà nước kiểm soát.
Sẽ có những công ty mua các dự án mà các tập đoàn lớn bán lại để giảm lượng khí thải, nếu vẫn có nhu cầu về dầu mỏ và giá đủ cao. Đó là lý do tại sao các vấn đề về biến đổi khí hậu không thể chỉ được giải quyết bằng cách buộc các công ty dầu mỏ đã niêm yết cổ phiếu giảm sản lượng.
Sự thay đổi thực sự phải đến từ việc giảm nhu cầu dầu mỏ trên toàn cầu và điều này đòi hỏi phải có các nguồn năng lượng thay thế. Các tập đoàn dầu mỏ lớn có thể tham gia vào giải pháp này.
Bên cạnh đó, nhiều nước có lượng khí thải lớn nhất thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ và Nga. Đây là những nước mà các tập đoàn dầu mỏ của phương Tây không hoặc ít hiện diện với tư cách là nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp.
Dù điều quan trọng là phải giảm lượng khí thải ở tất cả các nước, lượng khí thải cần được giảm mạnh nhất ở những nước nói trên.
Mức giảm 10% lượng khí thải của Trung Quốc sẽ giảm lượng khí thải trong khí quyển tương đương với việc không còn khí thải ở Anh, Italy và Pháp.
Trong khi đó, một phân tích mới đây cho thấy các hành động về khí hậu mà các nước cam kết sẽ chỉ làm giảm 9% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính trong thập kỷ này, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đến năm 2030 cắt giảm cần 50% lượng khí thải toàn cầu.
Các nhà khoa học cho biết việc không đạt được mục tiêu về khí thải đến năm 2030 sẽ đẩy thế giới đến những tác động về khí hậu không thể đảo ngược được, kể cả khi các nước đạt được mục tiêu đưa lượng khí thải ròng về 0 vào năm 2050.
Để phục vụ cho việc phân tích, Trung tâm chính sách năng lượng toàn cầu thuộc đại học Columbia University đã xem xét các kế hoạch khí hậu của các nước, được biết đến với tên gọi Đóng góp được quốc gia tự xác định (NDC). Kết quả phân tích cho thấy có sự chênh lệch lớn giữa mức độ của các NDC với lộ trình cần thiết để có thể đưa lượng khí thải ròng về 0 vào năm 2050.
Báo cáo cho biết Mỹ và Liên minh châu Âu (EU), dù cam kết đưa lượng khí thải ròng về 0 vào năm 2050, nhưng được dự đoán sẽ chỉ giảm 27% lượng khí thải vào năm 2030 so với các mức năm 2015.

Lượng khí thải tại các nước như Trung Quốc và Ấn Độ thậm chí còn được dự đoán sẽ tăng 10% trong thập kỷ này, bất chấp cam kết đưa lượng khí thải ròng bằng 0 sau năm 2050. Báo cáo còn cho thấy rất ít quốc gia biến các cam kết của mình thành hành động rõ ràng.
Các nước giàu cần chấm dứt hoạt động khai thác dầu mỏ và khí đốt vào năm 2034 để giới hạn sự tăng nhiệt độ Trái Đất ở mức 1,5 độ C, đồng thời để các nước nghèo hơn có thời gian để thay thế nguồn thu nhập từ nhiên liệu hóa thạch./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục