Giáo dục đại học Việt Nam: Nâng chất lượng nội tại để bứt phá xếp hạng quốc tế

11:45' - 17/10/2025
BNEWS Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, giáo dục đại học Việt Nam đối mặt nhiều thách thức. Xây dựng nền tảng chất lượng nội tại vững chắc được xem là yếu tố then chốt để phát triển bền vững và hội nhập.
Các trường đại học vừa là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, vừa là động lực thúc đẩy phát triển. Tuy nhiên, giáo dục đại học Việt Nam đang đối mặt với áp lực cạnh tranh to lớn trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Vì vậy, việc xây dựng nền tảng chất lượng nội tại vững chắc là yếu tố sống còn để đưa các cơ sở giáo dục đại học vươn lên thứ hạng cao và phát triển bền vững.

*Nhiều thách thức trong kiểm định chất lượng

Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc chia sẻ: 10 năm trước, số lượng các cơ sở giáo dục đại học, chương trình đào tạo thực hiện đánh giá ngoài - được kiểm định chất lượng còn ít. Tuy nhiên, trong 10 năm qua, đặc biệt là 5 năm gần đây, số cơ sở được kiểm định chất lượng đã đạt đến hơn 90%. Đây là một chuyển biến rất lớn. Đồng thời, số lượng chương trình đào tạo được đánh giá ngoài và kiểm định chất lượng cũng tăng mạnh, hiện đạt khoảng hơn 40% trong khối đại học - một bước tiến quan trọng.Công tác tự đánh giá tại các cơ sở giáo dục được triển khai bài bản, nghiêm túc và tuân thủ đầy đủ quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tính đến nay, 89,7% cơ sở đã hoàn thành kiểm định chu kỳ 1 và 53,71% ở chu kỳ 2, phản ánh sự sẵn sàng của hệ thống đối với tái kiểm định và cải tiến liên tục.

Hoạt động này ngày càng khẳng định vai trò là công cụ cốt lõi để đo lường mức độ đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng. Tự đánh giá đã trở thành hoạt động thường xuyên và có tính hệ thống. Chất lượng minh chứng và báo cáo cũng được cải thiện đáng kể. Nhiều trường đã chủ động mời chuyên gia tập huấn kỹ năng viết báo cáo và tổ chức hội đồng tự đánh giá một cách chuyên nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng đầu ra của quá trình tự đánh giá.

Sau khi hoàn thành tự đánh giá và đánh giá ngoài, nhiều trường đã thể hiện sự chủ động, nghiêm túc và chuyên nghiệp trong phối hợp và triển khai cải tiến. Có đến 71,19% trường đánh giá cơ cấu tổ chức và hoạt động đảm bảo chất lượng ở mức cao và rất cao, cho thấy hệ thống quản trị chất lượng đã được củng cố. Các hoạt động cải tiến sau đánh giá ngoài cũng được triển khai bài bản. Trong đó, các giải pháp tập trung vào hoàn thiện văn bản, cập nhật chuẩn đầu ra, đổi mới chương trình và phương pháp giảng dạy, nâng cao năng lực đội ngũ, cũng như cải thiện điều kiện học tập cho người học. Đặc biệt, việc điều chỉnh chương trình đào tạo dựa trên phản hồi của sinh viên, nhà tuyển dụng và khuyến nghị của đoàn đánh giá ngoài cho thấy chu trình “Tự đánh giá – Đánh giá ngoài – Cải tiến chất lượng” đã dần trở thành nền tảng cho bảo đảm chất lượng toàn diện, tạo động lực cải tiến thực chất và bền vững.

Tuy nhiên, nhìn nhận về một số thách thức đối với hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá, đội ngũ kiểm định viên trong nước tuy đã được đào tạo, nhưng vẫn còn thiếu về số lượng và chưa đồng đều về năng lực, đặc biệt là về khả năng tư vấn cải tiến, phân tích dữ liệu và đánh giá năng lực đầu ra. Điều này dẫn đến hạn chế trong việc hỗ trợ các cơ sở giáo dục đại học thực hiện cải tiến liên tục sau kiểm định - vốn là bản chất cốt lõi của một hệ thống kiểm định chất lượng hiệu quả.

Một vấn đề khác được chỉ ra là Việt Nam hiện vẫn thiếu cơ chế công nhận lẫn nhau về kết quả kiểm định với các quốc gia và tổ chức quốc tế, kết quả kiểm định trong nước chưa được công nhận rộng rãi trong các hoạt động liên kết đào tạo, chuyển tiếp học tập hay xếp hạng quốc tế.

Bên cạnh đó, sự tham gia của các tổ chức kiểm định trong nước vào các mạng lưới bảo đảm kiểm định chất lượng khu vực và quốc tế còn hạn chế, phần lớn mới dừng ở mức tham gia, quan sát viên, ít có điều kiện tham gia hoạch định tiêu chuẩn tầm cỡ quốc tế hay tham gia đào tạo, trao đổi chuyên gia, do thiếu chính sách hỗ trợ lâu dài và đầu tư bài bản.

Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng (Bộ Giáo dục và Đào tạo) Huỳnh Văn Chương cho biết: Định hướng phát triển giáo dục đại học trong giai đoạn tới được xác lập trên tinh thần các Nghị quyết số 71-NQ/TW và Nghị quyết số 57-NQ/TW. Tư duy chỉ đạo xuyên suốt được thể hiện qua các cụm từ then chốt: đột phá, hiện đại hóa, đạt chuẩn quốc tế, quỹ học bổng, đồng thời, tập trung hoàn thiện cơ chế tự chủ đại học không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính. Bên cạnh đó, tiếp tục công cuộc sắp xếp lại hệ thống các cơ sở giáo dục đại học ở cả cấp trung ương và địa phương theo hướng tinh gọn, hiệu quả, đảm bảo phân tầng, định hướng rõ ràng.

 

*Chất lượng - yếu tố cốt lõi để xếp hạng đại học

Theo Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, Việt Nam đã đặt ra các mục tiêu cụ thể và tham vọng cho phát triển giáo dục đại học.

Mục tiêu tới năm 2030, có 8 đại học top 200 châu Á, 1 đại học top 100 thế giới trong một số lĩnh vực; 100% cơ sở giáo dục đại học đạt chuẩn quốc gia, 20% cơ sở hiện đại tương đương Châu Á; tỷ lệ người học STEM đạt ít nhất 35%; tăng 12%/năm công bố khoa học quốc tế… Mục tiêu đến năm 2035, phấn đấu ít nhất 2 cơ sở giáo dục đại học thuộc top 100 thế giới ở một số lĩnh vực. Tầm nhìn đến năm 2045, phấn đấu ít nhất 5 cơ sở thuộc top 100 thế giới ở một số lĩnh vực, hệ thống giáo dục quốc dân đứng trong top 20 thế giới về chất lượng, công bằng, hiện đại.Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nghiêm Xuân Huy (Viện Đào tạo số và Khảo thí, Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng: Xếp hạng là công cụ khách quan giúp các trường đối sánh, nhận diện điểm mạnh, điểm yếu và cải tiến chất lượng. Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 có 8 trường vào top 200 châu Á, nhưng hiện còn khoảng cách lớn. Các yếu tố quyết định thứ hạng gồm uy tín học thuật, uy tín tuyển dụng, đội ngũ giảng viên, quốc tế hóa và chất lượng nghiên cứu.

Phân tích nguyên nhân của những điểm yếu hiện nay trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, theo ông Nghiêm Xuân Huy, các cơ sở giáo dục đại học chưa sử dụng hiệu quả phản hồi của các bên liên quan trong cải tiến chất lượng giáo dục, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín học thuật và uy tín tuyển dụng; chưa phát triển hài hòa và gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động đào tạo - nghiên cứu khoa học, ảnh hưởng tới hiệu suất nghiên cứu cũng như nguồn thu từ nghiên cứu. Bên cạnh đó, đầu tư và chiến lược phát triển đội ngũ giảng viên chưa mang lại hiệu quả mong đợi, ảnh hưởng tới tỷ lệ, chất lượng đội ngũ. Các chính sách hiện tại chưa tạo được động lực mạnh mẽ cho giảng viên tham gia nghiên cứu và xuất bản quốc tế; hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học còn mang tính hình thức, chưa tạo ra mạng lưới hiệu quả và tỷ lệ học giả quốc tế thấp.

Để đạt được các mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 71-NQ/TW, ông Nghiêm Xuân Huy nhấn mạnh giải pháp xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng vững mạnh, minh bạch dữ liệu và gắn kết phản hồi từ các bên liên quan. Ở tầm quốc gia, cần hoàn thiện thể chế, chính sách linh hoạt, tích hợp chỉ số xếp hạng vào tiêu chuẩn kiểm định và thúc đẩy tự chủ đại học. Xếp hạng không phải mục tiêu cuối cùng mà là kết quả tất yếu của hệ thống bảo đảm chất lượng hiệu quả.

Giáo sư - Tiến sĩ khoa học Bành Tiến Long, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng, cần có sự chuyển dịch từ mô hình tĩnh sang mô hình động trong bảo đảm chất lượng; từ mô hình dựa trên các chu kỳ gián đoạn và quy tắc cứng nhắc sang mô hình năng động, giám sát liên tục và dựa trên nguyên lý. Có thể tạm gọi đó là mô hình kiến tạo - dẫn dắt phát triển chất lượng. Sự thay đổi trong dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) với việc nhấn mạnh vai trò của bảo đảm chất lượng nội bộ; Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 71-NQ/TW là minh chứng rõ ràng cho xu hướng này. Hệ thống kiểm định cần hướng đến minh bạch, hợp tác, hiệu quả và không ngừng cải tiến chất lượng, qua đó xây dựng một nền giáo dục “thông minh và nhân văn”.

Trong giai đoạn tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tiếp tục đổi mới cách đánh giá chương trình đào tạo và cơ sở giáo dục đại học. Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng cho biết, thay vì áp dụng tới 7 mức như trước, hệ thống mới chỉ còn hai mức chính là “Đạt” và “Không đạt”, giúp chuẩn hóa, minh bạch kết quả, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế của Hoa Kỳ và châu Âu. Bên cạnh đó, quy định mới sẽ xác định rõ “tiêu chí điều kiện”, tập trung vào các yếu tố cốt lõi như chuẩn đầu ra, đội ngũ giảng viên và hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong. Nếu không đáp ứng được các tiêu chí điều kiện này, cơ sở sẽ không được công nhận đạt chuẩn.

Đặc biệt, Bộ cũng quy định trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học trong chu trình cải tiến chất lượng, yêu cầu các trường phải có kế hoạch cải tiến định kỳ, thay vì chỉ thực hiện theo chu kỳ 5 năm như trước.

Ông Huỳnh Văn Chương nhấn mạnh: Các quy định mới hướng tới kiểm định thực chất và hội nhập quốc tế, loại bỏ các yêu cầu rườm rà. Bộ cũng khuyến khích nâng cao tính tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học trong bảo đảm và kiểm định chất lượng, gắn kết trực tiếp với xếp hạng, công nhận văn bằng, chuyển đổi tín chỉ và hợp tác quốc tế.

Định hướng chung của hoạt động bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam là phát triển theo chiến lược “thực học - thực hành - thực nghiệm - thực nghiệp”, qua đó nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh của giáo dục đại học Việt Nam.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục