Kiểm soát độ an toàn trong quản lý nợ công

14:26' - 10/03/2016
BNEWS Theo một quan chức của Bộ Tài chính, huy động vốn vay của Chính phủ năm 2015 đã tăng gấp đôi với năm 2011, trong đó huy động thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ ở trong nước tăng gần 3,5 lần.
Ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính). Ảnh: mof.gov.vn

Ngày 10/3, ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) cho biết, huy động vốn vay của Chính phủ năm 2015 đã tăng gấp đôi với năm 2011; trong đó, huy động thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước năm 2015 tăng gần 3,5 lần.

Đây là nguyên nhân dẫn đến nợ Chính phủ, nợ công tăng nhanh trong giai đoạn vừa qua và điều đó dẫn đến 2 khó khăn là mức bố trí trả nợ so với tổng thu NSNN đã tăng từ mức khoảng 13% đầu giai đoạn lên hơn 16%, phát sinh nhu cầu vay mới để thanh toán một phần nợ gốc đến hạn.

Trong khi thị trường vốn trong nước chưa thực sự phát triển, trước áp lực huy động vốn lớn đã dẫn đến phải huy động vốn ngắn hạn (03 năm) trong những năm 2011-2013 và tạo áp lực trả nợ vào các năm 2015-2017. Ngoài ra, về các giải pháp đảm bảo an toàn nợ công, giữ các chỉ tiêu nợ trong giới hạn trần cho phép.

Theo ông Trương Hùng Long, vấn đề quan trọng nhất của quản lý nợ công là kiểm soát độ an toàn của nợ công.

Hầu hết các quốc gia đều đặt ra các chỉ tiêu giới hạn về trần nợ công để kiểm soát tính bền vững của nợ công. Do đó, ông Trương Hùng Long cho rằng, việc giữ các chỉ tiêu nợ công trong mức trần cho phép là cần thiết.

Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi nhất trong an toàn nợ công phụ thuộc vào 2 yếu tố là tính hiệu quả của việc sử dụng các nguồn vốn từ các khoản nợ công; khả năng trả nợ từ chủ thể đi vay và khả năng đáp ứng nguồn vốn vay từ phía thị trường.

Theo ông Trương Hùng Long, các giới hạn trần nợ cho phép giai đoạn 2011-2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Nghị quyết số 10/2011/QH13 ngày 8/11/2011 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015 là nợ công không quá 65% GDP; nợ Chính phủ không quá 50% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP và nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ không quá 25% thu Ngân sách Nhà nước (NSNN) hàng năm.

Đến ngày 31/12/2015, nợ công ở mức 62,2% GDP, nợ Chính phủ ở mức 50,3% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia ở mức 43,1% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ ở mức 16,1% tổng thu NSNN.

Như vậy, chỉ tiêu nợ Chính phủ vượt giới hạn cho phép là 0,3% GDP xuất phát từ 2 lý do, GDP thực tế thực hiện năm 2015 giảm mạnh so với số đã dự báo tháng 10/2015 là 291,1 nghìn tỷ đồng (4.484 nghìn tỷ đồng so với 4.193 nghìn tỷ đồng); bổ sung 30 nghìn tỷ đồng kế hoạch giải ngân vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài năm 2015 theo Nghị quyết số 99/2015/ QH13 ngày 11/11/2015 của Quốc hội về dự toán NSNN năm 2015.

Ông Trương Hùng Long cũng cho biết, các biện pháp để hạn chế khả năng các chỉ tiêu nợ vượt trần là nếu giữ mức đầu tư như giai đoạn 2011-2015, vẫn tập trung đẩy mạnh đầu tư từ phía nhà nước, vẫn còn tâm lý dựa vào nhà nước mà không cần nhắc đến bối cảnh hiện tại và với tình hình cân đối ngân sách như giai đoạn vừa qua, áp lực huy động vốn cho đầu tư là rất lớn và việc nợ công vượt trần là có thể xảy ra, dẫn đến các rủi ro an toàn nợ công.

Để nợ công không vượt trần cho phép thì phải triển khai quyết liệt các biện pháp để đảm bảo 2 yếu tố cốt lõi của an toàn nợ công. Cụ thể về tăng cường tính hiệu quả của việc sử dụng vốn vay các nguồn vốn từ các khoản nợ công, theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và Luật Quản lý nợ công, toàn bộ vốn vay công được sử dụng trực tiếp cho các dự án phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội.

Trong thời gian qua, các dự án trong nhiều lĩnh vực giao thông, cầu cảng, nông thôn, giảm nghèo, giáo dục, y tế... đã đưa vào sử dụng, góp phần cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chất lượng đời sống người dân cũng như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô.

Tuy nhiên, việc phân bổ và sử dụng vốn và sử dụng trong thời gian qua còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Tình trạng mở rộng diện, quy mô, điều chỉnh tổng mức đầu tư so với phê duyệt ban đầu vẫn khá phổ biến, dẫn đến tăng mức vay công.

Nguồn vốn vay công được đầu tư vào tất cả các ngành, các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy để nâng cao tính hiệu quả sử dụng vốn đòi hỏi các cấp, các ngành, các chủ dự án đều phải tăng cường trách nhiệm và kiểm soát chặt chẽ hơn.

Về khả năng trả nợ của chủ thể đi vay và khả năng đáp ứng từ thị trường. Giai đoạn 2011-2015, Việt Nam tập trung tăng huy động vốn vay rất lớn từ việc phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước cho đầu tư phát triển.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục