Linh hoạt chính sách tiền tệ dựa vào "sức khỏe" của tổ chức tín dụng

18:34' - 15/06/2022
BNEWS Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, phối hợp chặt với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô để kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ.
Mặc dù ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, nhưng trong 6 tháng đầu năm 2022, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối; đồng thời, sẵn sàng cung ứng đủ nguồn vốn cho quá trình phục hồi và phát triển kinh tế.

* Tín dụng tăng trưởng đều ở các lĩnh vực

Theo Phó Thống đốc ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú, đến ngày 9/6, tín dụng tăng 8,15% so với cuối năm 2021, tăng 17,09% so với cùng kỳ năm 2021 và phù hợp với diễn biến tích cực của nền kinh tế. Đáng chú ý, tăng trưởng tín dụng đồng đều ở nhiều lĩnh vực, nhất là những lĩnh vực gặp nhiều khó khăn như: du lịch, khách sạn… ghi nhận tăng trưởng mạnh trên 8%, cao hơn mức tăng trưởng chung như: vận tải, dịch vụ... tăng 8,25%; công nghiệp phụ trợ tăng trên 7,6%...

Trong năm 2022, Ngân hàng Nhà nước dự kiến mở rộng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng lên khoảng 14% và có thể linh hoạt theo định hướng điều hành. Việc phân bổ tín dụng vào các lĩnh vực sẽ được thực hiện theo các công cụ hạn mức tăng trưởng tín dụng cho từng ngân hàng và các phương án điều hành khác.

Ngay từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo, định hướng tín dụng tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.

Phó Thống đốc nhận định, dòng vốn tín dụng tăng trưởng tốt và được điều hướng tích cực đã bù đắp đáng kể sự thiếu hụt vốn cho doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp và chứng khoán gặp khó khăn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phục hồi kinh tế. Đặc biệt, việc triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2% sẽ tạo hiệu ứng tích cực hơn cho việc tăng trưởng của doanh nghiệp, giúp họ mạnh dạn triển khai kế hoạch sản xuất kinh doanh.

Điều này được thể hiện qua việc nhiều ngân hàng đã chạm trần hạn mức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước cấp hồi đầu năm và đang trình nới thêm "room". Tại một số ngân hàng thương mại như Vietcombank, 5 tháng đầu năm tăng trưởng tín dụng hơn 9%, trong khi hạn mức năm nay tăng trưởng chỉ 15%; ACB sau 4 tháng đầu năm có mức tăng trưởng tín dụng 8% khi hạn mức được cấp là 10%. Một số ngân hàng khác như HDBank, Eximbank, Sacombank, TPBank, VPBank hay SHB cũng trong tình trạng tương tự.

Theo các chuyên gia kinh tế, cầu tín dụng được dự báo sẽ tiếp tục tăng cao, nhất là khi gói hỗ trợ lãi suất 2% theo Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình sẽ kích thích thêm nhu cầu tín dụng.

Ngân hàng Thế giới cũng đánh giá, việc tín dụng tăng trưởng mạnh mẽ đã hỗ trợ nền kinh tế phục hồi. Sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế làm tăng nhu cầu tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tiêu dùng của hộ gia đình. Đáng chú ý, lãi suất liên ngân hàng qua đêm giảm mạnh từ 2,56% trong tháng 2 xuống 1,37% trong tháng 4 và 0,33% trong tháng 5, gần bằng mức lãi suất trong tháng 5/2021 và là dấu hiệu cho thấy thanh khoản đang dồi dào.

Tuy nhiên, theo Thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Thị Hồng, nhu cầu tín dụng rất lớn của nền kinh tế đã đặt ra bài toán với Ngân hàng nhà nước về điều hành chính sách tiền tệ những tháng cuối năm, vừa đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế, vừa không chủ quan với lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế.

Trong 3 năm trở lại đây, nhu cầu tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại đều vượt 20%, dù định hướng tăng trưởng tín dụng chỉ là 14%. Với tốc độ tăng trưởng như vậy, nếu không kiểm soát hạn mức cấp tín dụng, áp lực lạm phát sẽ rất lớn và áp lực tăng lãi suất huy động cũng rất cao.

Do đó, hàng năm Ngân hàng Nhà nước đều đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng, nhưng có sự điều chỉnh linh hoạt tùy theo diễn biến thị trường, kinh tế vĩ mô và dựa vào "sức khỏe" của từng tổ chức tín dụng.

* Nới rộng các tiêu chí cho vay

Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết, với phương châm chia sẻ khó khăn và đồng hành cùng người dân và doanh nghiệp bằng chính nguồn lực của ngành ngân hàng, ngành ngân hàng tiếp tục triển khai quyết liệt các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, đảm bảo đáp ứng tốt nhu cầu vốn tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh như: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ; chính sách giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng; chương trình cho vay trả lương ngừng việc và trả lương phục hồi sản xuất; miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán...

Cùng đó, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành, dù chịu áp lực từ xu hướng nới lỏng tiền tệ, tăng lãi suất trên toàn cầu nhằm tạo điều kiện để tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ Ngân hàng Nhà nước với chi phí thấp, qua đó có điều kiện giảm lãi suất cho vay hỗ trợ khách hàng phục hồi sản xuất kinh doanh.

Ngân hàng Nhà nước cũng đã yêu cầu các tổ chức tín dụng nỗ lực giảm lãi suất cho vay từ 0,5 - 1%/năm trong thời gian tới, tiếp tục hỗ trợ các cá nhân, doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh các tỉnh, thành phố đều có văn bản yêu cầu các tổ chức tín dụng trên địa bàn giữ nguyên mức lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp tham gia bình ổn thị trường để góp phần ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát.

Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết, đến cuối tháng 4/2022, lũy kế giá trị nợ đã cơ cấu từ khi ban hành Thông tư 01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ do ảnh hưởng của dịch COVID-19 là hơn 695 nghìn tỷ đồng cho trên 1,1 triệu khách hàng. Dư nợ cơ cấu giữ nguyên nhóm nợ hiện còn hơn 198 nghìn tỷ đồng của gần 680 nghìn khách hàng; lũy kế giá trị nợ đã được miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ là gần 91 nghìn tỷ đồng cho gần 490 nghìn khách hàng. Dư nợ miễn, giảm lãi giữ nguyên nhóm nợ còn gần 18 nghìn tỷ đồng của hơn 166 nghìn khách hàng.

Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều giải pháp cụ thể để đưa nguồn vốn tín dụng đến với doanh nghiệp, nhưng khả năng tiếp cận nguồn vốn của doanh nghiệp vẫn chưa cao do quy định doanh nghiệp phải không có nợ xấu, có doanh thu, lợi nhuận, tài sản bảo đảm…

Bà Đinh Thị Thắm, Giám đốc công ty chuyên về du lịch tại Ninh Bình cho biết, do ảnh hưởng bởi dịch bệnh nên công ty gặp khó khăn về nguồn vốn, nhưng khi tiếp cận nguồn vốn theo các gói hỗ trợ gặp khá nhiều trở ngại vì thiếu tài sản đảm bảo. Do vậy, nếu doanh nghiệp không đủ điều kiện hỗ trợ thì cần được bảo lãnh tín dụng, chỉ cần xem phương án của doanh nghiệp có thể tạo ra dòng tiền trả nợ hay không.

“Tôi cho rằng, cần thay đổi điều kiện cho vay một cách phù hợp và ngân hàng chịu trách nhiệm trong việc thẩm định này”, bà Đinh Thị Thắm nói.

Theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu, việc ngân hàng có nhiều tiêu chí khắt khe khiến nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn không có cơ hội tiếp cận gói hỗ trợ. Bên cạnh đó, thời gian hỗ trợ 2 năm là quá ngắn bởi có thể xảy ra tình trạng doanh nghiệp chưa thực hiện xong thủ tục vay vốn thì chính sách đã hết hiệu lực.

Ngân hàng Nhà nước cho biết, thời gian tới sẽ tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng triển khai thiết thực, hiệu quả các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp; khuyến khích các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục giảm lãi suất cho vay, đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời vốn phục vụ sản xuất kinh doanh. Các tổ chức tín dụng tiếp tục rà soát cơ chế, thủ tục cho vay để phù hợp hơn trong tình hình mới và thực tiễn thị trường, nhưng vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng và an toàn hệ thống./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục