Ngân hàng đối mặt với rủi ro nợ xấu

17:03' - 05/08/2021
BNEWS Ngành ngân hàng đang đối mặt với rủi ro nợ xấu trong giai đoạn tiếp theo và ảnh hưởng tới lợi nhuận trong các năm sau nếu dịch bệnh COVID-19 chậm được kiểm soát.
Dịch COVID-19 vẫn đang diễn biến phức tạp, tác động tiêu cực lên mọi lĩnh vực đời sống, kinh tế - xã hội. Trong đó, hoạt động ngân hàng cũng không phải là ngoại lệ, nguy cơ nợ xấu tăng cao trong các tháng cuối năm đang ngày một hiện hữu.

Nợ xấu cao dù chưa phản ánh đầy đủ

Theo báo cáo 6 tháng đầu năm 2021 của Ngân hàng Nhà nước, dưới tác động của dịch bệnh COVID-19, tỷ lệ nợ xấu nội bảng có xu hướng tăng trong các tháng đầu năm 2021, từ mức 1,69% hồi cuối năm 2020 lên mức 1,78% vào thời điểm cuối tháng 4/2021.

Thực tế ghi nhận từ báo cáo tài chính quý II/2021 của các ngân hàng cho thấy, hơn nửa số ngân hàng đã công bố đều ghi nhận số dư nợ quá hạn tăng cao so với cuối năm 2020.

Trong 4 ngân hàng lớn, chỉ riêng Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) có số dư nợ xấu giảm nhẹ 1,1%. Còn tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank), Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agibank), nợ xấu ghi nhận mức tăng trưởng mạnh, lần lượt là 52%, 31,3% và 13,5%.

Đáng chú ý, nợ xấu tại VietinBank tăng đột ngột bắt nguồn từ việc nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) của ngân hàng đã tăng gấp đôi, từ hơn 6.000 tỷ đồng lên gần 12.300 tỷ đồng trong 2 quý đầu năm.

Ngoài ra, Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB), Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam (MSB), Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank)... cũng ghi nhận tăng trưởng nợ xấu trong 6 tháng qua ở mức 2 con số.

Ở chiều ngược lại, Ngân hàng TMCP Kiên Long (Kienlongbank) đã có cú xoay chuyển ngoạn mục khi giảm tới 73% số dư nợ xấu so với hồi cuối năm 2020. Lý do là bởi ngay trong quý đầu năm 2021, Kienlongbank đã xử lý xong toàn bộ tài sản bảo đảm, hoàn thành việc thu hồi nợ gốc và lãi phải thu của các khoản vay có tài sản bảo đảm là cổ phiếu của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (STB). Điều này khiến số dư nợ xấu tại Kienlongbank giảm mạnh, nhất là với nợ nhóm có khả năng mất vốn, giảm 4 lần so với trước.

Với phần nhiều các ngân hàng ghi nhận nợ xấu tăng và đặc biệt tăng mạnh ở khoản nợ có khả năng mất vốn, đã phản ánh phần nào sức khỏe của nền kinh tế. Dịch bệnh kéo dài, doanh nghiệp bị gián đoạn sản xuất, đứt gãy dòng tiền, thậm chí là phá sản, dẫn dến mất khả năng trả nợ ngân hàng.

Tuy vậy, những con số trên vẫn chưa thể hiện đầy đủ thực trạng nợ xấu của toàn ngành do các ngân hàng đang được phép cơ cấu và giữ nguyên nhóm nợ đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN và Thông tư 03/2021/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.

Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 14/6/2021, các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 241.443 khách hàng với dư nợ 326.299 tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho 679.877 khách hàng với dư nợ 1.053.808 tỷ đồng. Lũy kế số tiền lãi miễn, giảm cho khách hàng từ 23/1/2020 đến 14/6/2021 là 18.279 tỷ đồng.

Lũy kế từ 23/1/2020 đến nay, các tổ chức tín dụng cho vay mới lãi suất thấp hơn so với trước dịch đạt doanh số 3.700.754 tỷ đồng cho 506.151 khách hàng. Ngoài ra, Ngân hàng Chính sách Xã hội đã thực hiện gia hạn nợ cho 178.952 khách hàng với dư nợ 4.472 tỷ đồng, cho vay mới đối với 3.116.431 khách hàng với số tiền 113.710 tỷ đồng.

Củng cố tiềm lực tài chính

Trước những diễn biến nghiêm trọng của dịch bệnh, TS. Nguyễn Trí Hiếu, Chuyên gia tài chính ngân hàng cho biết việc giãn cách xã hội đảm bảo phòng chống dịch COVID-19 tại nhiều tỉnh, thành phố đang ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp nhất là ở những khu vực tập trung các khu công nghiệp lớn. Sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó sẽ tác động khiến tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống các tổ chức tín dụng tăng trong thời gian tới.

Trong khi đó, các chuyên gia của Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCBS) trong báo cáo triển vọng mới đây cho rằng, nợ xấu phát sinh do tác động của COVID-19 thấp hơn kỳ vọng ban đầu, nhiều ngân hàng đã ghi nhận quy mô dư nợ tái cơ cấu giảm. Nhiều ngân hàng đã hoàn thành trích lập dự phòng nợ tái cơ cấu theo Thông tư 01 ngay từ năm 2020. Tuy nhiên, ngành ngân hàng đang đối mặt với rủi ro nợ xấu trong giai đoạn tiếp theo và ảnh hưởng tới lợi nhuận trong các năm sau nếu dịch bệnh COVID-19 chậm được kiểm soát.

Dự báo từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy, đến cuối năm 2021, có khả năng tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho Công ty Quản lý tài sản (VAMC) chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của toàn hệ thống sẽ cao hơn so với mức đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại Tờ trình số 08/TTr-NHNN ngày 24/02/2021. Theo đó, tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn hệ thống ước tính ở mức từ 2-3%; tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của toàn hệ thống ước tính ở mức từ 4-4,5%.

Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, những năm qua, các ngân hàng đã rất nỗ lực cải thiện chất lượng tài sản, củng cố tiềm lực tài chính thông qua việc tăng vốn điều lệ, giữ lại lợi nhuận không chia để củng cố nguồn vốn tương lai, tiết giảm chi phí hoạt động. Đồng thời quyết liệt xử lý nợ xấu, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại... Nhờ đó đến nay, tăng trưởng lợi nhuận của các ngân hàng đạt cao trong những quý vừa qua dù hoạt động gặp nhiều khó khăn trong bối cảnh dịch bệnh.

"Lợi nhuận của ngân hàng đạt mức cao là điều đáng mừng, bởi từ đó, các ngân hàng sẽ có thêm nhiều nguồn lực để hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ nền kinh tế", ông Hùng khẳng định.

Dù vậy, ông Hùng cũng khuyến cáo các tổ chức tín dụng song song với thực hiện giảm lãi suất hỗ trợ người dân, cần chủ động nâng cao năng lực tài chính và vốn tự có. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 03/2021/TT-NHNN yêu cầu trích lập dự phòng trong thời gian 3 năm với tỷ lệ trích lập tối thiểu là 30%, nhưng nếu tình hình tài chính của tổ chức tín dụng tốt nên trích dự phòng các khoản nợ đó ngay từ bây giờ để có dự phòng trong tương lai.

Nợ xấu vốn là điều không tránh khỏi trong nền kinh tế và càng trở nên rủi ro hơn dưới tác động của đại dịch COVID-19. Tuy vậy, nếu có một lộ trình rõ ràng và những bước đệm chuẩn bị chu đáo, rủi ro nợ xấu sẽ khó tác động mạnh đến an toàn của hệ thống ngân hàng, kênh dẫn vốn của nền kinh tế. Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam nhận định./.

>>Giảm áp lực nợ xấu ngân hàng thời COVID-19

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục