Quy hoạch thủy lợi với tư duy mở và động, tránh chắp vá, lãng phí

21:42' - 24/03/2025
BNEWS Tại cuộc họp cho ý kiến về Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Hồng-sông Thái Bình, sông Cửu Long, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu quy hoạch thủy lợi với tư duy mở và động, tránh chắp vá, lãng phí.
“Quy hoạch thủy lợi phải giải quyết những mục tiêu ngắn hạn song cần đáp ứng tầm nhìn dài hạn, tránh chắp vá, lãng phí; bảo đảm tính kết nối đồng bộ, tổng thể giữa nhiệm vụ cấp nước cho sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp, thủy điện… với thoát nước đô thị, xử lý ô nhiễm môi trường”. Đây là yêu cầu của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tại cuộc họp trực tiếp kết hợp trực tuyến, cho ý kiến về Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Hồng-sông Thái Bình, lưu vực sông Cửu Long, diễn ra chiều 24/3, tại Trụ sở Chính phủ.

* Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ

Theo báo cáo tại cuộc họp, lưu vực sông Hồng-sông Thái Bình thuộc lãnh thổ Việt Nam có diện tích 88.860 km2, thuộc 25 tỉnh, thành phố, với dân số khảng 34 triệu người. Trên lưu vực, có khoảng 22.600 công trình thủy lợi, cấp nước cho 860.000 ha đất canh tác, 151.000 ha nuôi trồng thủy sản, 870 triệu m3 nước sinh hoạt công nghiệp, tiêu thoát nước cho 1,37 triệu ha. Hệ thống hồ chứa tham gia phòng, chống lũ khoảng 8,45 tỷ m3. Hệ thống đê dài 2.108 km, 744 km kè bảo vệ cho hơn 18 triệu dân, 1 triệu ha đất nông nghiệp và hạ tầng kinh tế-xã hội.

Ba vấn đề đặt ra đối với quy hoạch lưu vực sông Hồng-sông Thái Bình là: Biến đổi khí hậu, thiên tai bất thường, cực đoan; phụ thuộc nguồn nước biên giới (chiếm khoảng 40%); áp lực của phát triển kinh tế-xã hội. Trong khi đó, hệ thống công trình thủy lợi quy mô nhỏ, thiết kế và công nghệ cũ, chưa tính toán đầy đủ yêu cầu phục vụ đa mục tiêu.

Do đó, quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Hồng-sông Thái Bình bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các quy hoạch về phòng, chống thiên tai và thủy lợi, tài nguyên nước, địa phương; đồng bộ giữa phát triển hạ tầng thủy lợi với phát triển hạ tầng các ngành khác, kế thừa hệ thống thủy lợi đã đầu tư, xây dựng.

Các công trình thủy lợi phục vụ đa mục tiêu, có tầm nhìn dài hạn, nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh nguồn nước, bảo vệ môi trường nước; góp phần phòng, chống thiên tai do nước gây ra, bảo vệ môi trường, sinh thái. Quy hoạch theo hướng "mở" để có thể điều chỉnh, bổ sung linh hoạt theo yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

Trên dòng chính, các giải pháp được đưa ra tập trung điều tiết hồ chứa thượng nguồn, xây dựng mới một số đập dâng, kiểm soát xâm nhập mặn cửa sông phục vụ. Tại các vùng thủy lợi (trung du miền núi, đồng bằng sông Hồng) sẽ nâng cấp, sửa chữa, xây dựng mới hồ chứa, đập dâng, trạm bơm, tuyến chuyển nước, cống tiêu... phục vụ tưới, cấp nước và tiêu, thoát nước.

Cùng với giải pháp công trình là giải pháp phi công trình như tưới tiên tiến, tiết kiệm nước, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số trong quy hoạch, xây dựng, quản lý, khai thác công trình thủy lợi, bảo vệ nguồn nước. Tổng nhu cầu sử dụng đất để thực hiện quy hoạch khoảng 6.700 ha, số vốn khoảng 105 nghìn tỷ đồng.

Các công trình, dự án được đề xuất trong quy hoạch được xây dựng, tính toán dựa trên các kịch bản phát triển kinh tế-xã hội, biến đổi khí hậu, nước biển dâng khác nhau.

Liên quan đến quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Hồng-sông Thái Bình, các ý kiến tại cuộc họp đề nghị đơn vị tư vấn rà soát kỹ, cập nhật số liệu thủy văn, lưu lượng nước, mực nước để bảo đảm tính tương thích với quy hoạch thủy điện, hiệu quả kinh tế, tác động của hệ thống thủy lợi đối với dòng chảy, thủy điện... Lãnh đạo một số địa phương đề xuất cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới một số đập dâng, công trình thủy lợi bảo đảm phòng, chống thiên tai (nhất là sau bão Yagi), cấp đủ nước sản xuất, sinh hoạt, giảm ô nhiễm môi trường nước...

* Tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi

Theo báo cáo của Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, lưu vực sông Cửu Long có diện tích 39.400 km2, thuộc 13 tỉnh, thành phố với dân số 17,5 triệu người. Toàn vùng có 15 hệ thống thủy lợi (7 liên tỉnh, 8 nội tỉnh), trên 91.700 km kênh, gần 30.000 cống, hơn 3.500 trạm bơm, 22 hồ chứa… phục vụ cho 2,5 triệu ha đất sản xuất.

Lưu vực sông Cửu Long đối diện với những thay đổi to lớn về điều kiện tự nhiên, nguồn nước, nhu cầu sử dụng nước. Một số công trình thủy lợi được đầu tư trước đây đã xuất cấp, không theo kịp tốc độ chuyển đổi sản xuất đang diễn ra nhanh chóng.

Do đó, quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long xác định tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi đối với sự phát triển bền vững của vùng, thích ứng biến đổi khí hậu, ứng phó hiệu quả với thời tiết cực đoan, khai thác hiệu quả 3 vùng sinh thái kinh tế ngọt-lợ-mặn, bảo đảm an ninh nguồn nước.

Hệ thống công trình thủy lợi được đầu tư xây dựng “không hối tiếc”, thuận thiên, đa mục tiêu (cấp nước sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, phòng chống lũ lụt, xâm nhập mặn…); bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các mạng lưới hạ tầng kỹ thuật khác; kế thừa những công trình thủy lợi đã có.

Cụ thể, các công trình thủy lợi ở vùng ngọt tăng khả năng chủ động kiểm soát lũ, lấy nước, trữ nước, tiêu thoát. Vùng ngọt-lợ hoàn thiện hệ thống thủy lợi kiểm soát nguồn nước phục vụ sản xuất; hình thành hệ thống chuyển nước; chủ động kiểm soát mặn trên dòng chính.

Vùng lợ-mặn xây dựng, hoàn thiện hệ thống thủy lợi kiểm soát nguồn cấp nước sinh hoạt, nước ngọt, mặn phục vụ sản xuất; củng cố, nâng cấp tuyến đê biển; ứng dụng, chuyển giao công nghệ thu, trữ, xử lý nước tại chỗ trong thời gian hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn…

Quy hoạch đề xuất các nhóm giải pháp công trình: Nâng cấp, hoàn thiện các dự án thủy lợi lớn; đầu tư xây dựng công trình kiểm soát nguồn nước tại cửa sông Vàm Cỏ, Hàm Luông; công trình trữ nước ngọt phân tán; nạo vét kênh, rạch lớn vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên; xây dựng hệ thống cống đầu kê kết hợp kiểm soát mặn và lấy nước từ sông chính; công trình chuyển nước cho vùng nam quốc lộ 1A Bạc Liêu, bán đảo Cà Mau; công trình chống ngập úng cho khu đô thị.

Cùng với đó là giải pháp phi công trình như tăng cường trữ nước; sắp xếp lại khu dân cư ven kênh, rạch; giám sát, dự báo nguồn nước; hoàn thiện quy trình, nâng cao chất lượng vận hành hệ thống thủy lợi… Nhu cầu sử dụng đất để thực hiện quy hoạch là 36.458 ha với kinh phí dự kiến 132.522 tỷ dồng.

Thống nhất cao với nội dung quy hoạch, lãnh đạo tỉnh An Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Sóc Trăng... kiến nghị sớm triển khai một số dự án thủy lợi có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của địa phương cũng như toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long.

* Tư duy mở và động

Kết luận cuộc làm việc, Phó Thủ tướng nhấn mạnh 2 quy hoạch có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của các địa phương tại lưu vực sông Hồng-sông Thái Bình, sông Cửu Long; do đó, cần thống nhất, gắn kết chặt chẽ quy hoạch thủy lợi lưu vực các sông này với các quy hoạch khác, có tư duy mở và động.

Theo Phó Thủ tướng, khả năng kết nối đồng bộ, liên thông của hệ thống thủy lợi phụ thuộc rất lớn vào địa hình, dòng chảy ở từng khu vực, đòi hỏi cách tiếp cận tổng thể, sự hiểu biết sâu sắc về lưu vực sông, nhất là trong điều kiện thời tiết cực đoan, thay đổi nguồn nước từ thượng nguồn.

Các công trình thủy lợi không chỉ là đê, hồ chứa, trạm bơm điều tiết… đứng riêng lẻ mà cần nhìn rộng ra với tính kết nối với các đô thị, công trình đô thị. Đơn vị tư vấn phải sử dụng các mô hình tính toán mô phỏng trong từng thời điểm thời tiết cực đoan ở lưu vực sông Hồng-sông Thái Bình để lý giải và có phương án giải quyết đồng bộ, tổng thể, ứng dụng công nghệ mới, hiện đại để có thể thay đổi quy hoạch các vùng thoát lũ trước đây, qua đó tác động trở lại tư duy phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.

“Tư duy mới là hệ thống công trình thủy lợi quản lý tài nguyên nước kết nối liên thông, khép kín thuận theo tự nhiên, có sự tham gia điều tiết của con người nhằm mang lại hiệu quả kinh tế nhiều mặt như cấp nước, giao thông thủy, du lịch, chống hạn, ngăn mặn, thoát lũ...”, Phó Thủ tướng nói.

Theo Phó Thủ tướng, việc đầu tư các công trình này không chỉ giải quyết các vấn đề thủy lợi mà rộng lớn hơn là bài toán thiết kế không gian phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương, do đó phải có bộ tiêu chí, lập luận khoa học, thuyết phục để đưa ra lựa chọn trách nhiệm nhất.

Đối với Đồng bằng sông Cửu Long, Phó Thủ tướng cho rằng, nước chính là trung tâm của mọi hoạt động sản xuất và đời sống đang chịu tác động biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, thay đổi thượng nguồn. Vì vậy, việc giải quyết vấn đề nước bằng những công trình thủy lợi đa mục tiêu là xương sống định hình sự phát triển bền vững ở khu vực này.

Các địa phương ở Đồng bằng sông Cửu Long đã có sự nhìn nhận thống nhất, cách làm bài bản trong việc thiết lập hệ thống thủy lợi liên hoàn, đa mục tiêu theo 3 vùng kinh tế sinh thái ngọt-lợ-mặn.

Trên cơ sở cân nhắc, đánh giá lại hệ thống công trình thủy lợi trước đây, quy hoạch Thủy lợi lưu vực sông Cửu Long phải tính toán, đưa ra tiêu chí ưu tiên đầu tư những công trình vừa cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài, đa mục tiêu mang tính lan tỏa như trữ nước, ngăn lũ, chống mặn, bảo đảm nước sinh hoạt, cấp nước cho các vùng nông nghiệp tập trung, chuyên canh, công nghệ cao; không xung đột, mâu thuẫn với các công trình thủy lợi tiếp theo, mà tạo thành hệ thống khép kín.

“Quy hoạch cũng cần chỉ ra những công trình thủy lợi cần được đầu tư càng sớm càng tốt như hồ chứa, công trình chuyển nước... nhằm bảo đảm đủ nước cho các hoạt động kinh tế-xã hội ngay cả trong tình huống xấu nhất về an ninh nguồn nước”, Phó Thủ tướng đặt vấn đề.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục