Trồng trọt phải có mã số vùng trồng

13:19' - 08/07/2021
BNEWS Nông nghiệp đang đi ngược là từ nhu cầu xuất khẩu quay trở lại cấp mã số vùng trồng. Trong khi bản chất, mã số vùng trồng là kế hoạch, quản lý sản xuất, xuất khẩu chỉ là một vấn đề.

Tại hội nghị trực tuyến sơ kết sản xuất trồng trọt vụ Hè Thu và triển khai kế hoạch sản xuất vụ Thu Đông, vụ Mùa năm 2021 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày 8/7, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh, chuyển sang tư duy kinh thế nông nghiệp thì phải tính toán chi phí sản xuất.

Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, trước tình trạng giá phân bón, giá thuốc bảo vệ thực vật tăng cao thì hiệu quả sản xuất không chỉ là sản lượng mà cần tính đến chi phí đầu vào. Việc lệ thuộc vật tư đầu vào từ nhập khẩu cũng cần tính đến cả việc tự chủ những vật tư này. Bên cạnh đó, những mô hình tôm – lúa, cá – lúa… hay thay vụ lúa bằng vụ tôm, vụ cá cũng cần chia sẻ, nhân rộng để có tư duy tích hợp trong sản xuất. Từ đó, đem lại hiệu quả sản xuất, giảm áp lực tiêu thụ một sản phẩm.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan cũng chỉ ra, mã số vùng trồng sẽ tích hợp được thông tin mùa vụ. Thông qua đó để chuyển hóa, thay đổi hành vi sản xuất nông sản chất lượng hơn. Hiện nay, ngành đang đi ngược là từ nhu cầu xuất khẩu quay trở lại cấp mã số vùng trồng. Trong khi bản chất, mã số vùng trồng là quản lý sản xuất, thông tin mùa vụ, kế hoạch sản xuất, xuất khẩu chỉ là một vấn đề.

Do vậy, ngành nông nghiệp phải tư duy lại là đã trồng trọt ở vùng nông sản thì phải xây dựng mã số vùng trồng. Qua đó, có thể số hóa dữ liệu để hướng đến sản xuất trồng trọt; đồng thời, làm chủ con số thống kê để phân tích, khuyến cáo trong sản xuất. Từ đó, tránh gặp phải câu chuyện như trồng hồ tiêu, diện tích đã tăng lên gấp đôi so với định hướng sản xuất của ngành.

“Đây là trách nhiệm của địa phương, đặc biệt là giám đốc các sở nông nghiệp và Bộ sẽ có nhiệm vụ xây dựng tiêu chí hướng dẫn, kiểm tra”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh.

Về sản xuất vụ Hè Thu 2021, theo ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, tổng diện tích xuống giống lúa vùng Nam Bộ là gần 1,6 triệu ha, giảm 11 nghìn ha so với vụ Hè Thu 2020; năng suất ước đạt 56,51 tạ/ha, tăng 1,14 tạ/ha. Sản lượng lúa ước đạt 9,036 triệu tấn, tăng 120 nghìn tấn so với Hè Thu 2020.

Diện tích lúa vụ Hè Thu giảm chủ yếu do chuyển đổi sang trồng cây rau màu hằng năm, cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản có hiệu quả kinh tế cao hơn. Cùng đó là nhu cầu nguồn nước tưới ít hơn so với trồng lúa.

Riêng tại Đồng bằng sông Cửu Long, sản xuất trong vụ Hè Thu 2021 về cơ cấu giống đúng theo tinh thần chỉ đạo của Cục Trồng trọt. Đó là các giống lúa thơm, đặc sản; lúa chất lượng cao đều tăng; lúa chất lượng trung bình giảm 4,7% so với cùng kỳ và còn 11,5% tổng diện tích gieo cấy.

Theo ông Lê Thanh Tùng, cơ cấu giống lúa sản xuất từng mùa vụ đang có xu hướng chuyển dịch dần sang các giống lúa thơm, đặc sản. Đặc biệt, giống lúa thơm ST 24, ST 25 và giống lúa chất lượng cao phù hợp với yêu cầu thị trường xuất khẩu, nhất là thị trường EU theo các Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) đang có nhiều tiềm năng phát triển trong thời gian tới và nâng cao giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam.

Để giảm chi phí sản xuất vụ Hè Thu, các địa phương cũng triển khai nhiều giải pháp tuyên truyền thông qua các chương trình tập huấn, mô hình khuyến nông… Điều này đã giúp nông dân nhận thức và giảm mạnh việc sử dụng khối lượng hạt giống lúa trên 150 kg/ha, giảm 2,21%.

Bên cạnh đó, cơ giới hóa sản xuất cũng tăng lên trong quá trình sản xuất. Điển hình, khâu làm đất bằng cơ giới hóa đạt 100%, thu hoạch bằng máy trên 90%, gieo sạ lúa bằng máy đạt 30%, sấy lúa sau khi thu hoạch 30%. Tuy nhiên, tỷ lệ cơ giới hóa ở một số khâu vẫn còn thấp như: cấy lúa bằng máy và chăm sóc, bón phân.

Thực hiện chương trình tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo xuất khẩu, ngành nông nghiệp đã ưu tiên đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và giảm khối lượng hạt giống lúa gieo sạ trên một đơn vị diện tích. Từ đó, giảm chi phí đầu tư về hạt giống, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật khoảng từ 2 – 3 triệu đồng/ha tùy từng vùng sản xuất. Việc tăng tỷ lệ sử dụng giống lúa xác nhận và nguyên chủng đạt trên 75%, giúp năng suất và chất lượng lúa gạo hàng hóa tăng, chí phí sản xuất giảm đáng kể. Điều này mang lại lợi nhuận cao hơn cho người sản xuất và tăng lợi thế cạnh tranh cho ngành hàng lúa gạo xuất khẩu.

Với vụ Hè Thu, Cục Trồng trọt khuyến cáo, lúa chín đến đâu, nông dân cần tranh thủ thu hoạch đến đó, với phương châm “xanh nhà hơn già đồng” để hạn chế tối thiểu lúa đổ ngã trong mùa mưa, làm giảm năng suất và chất lượng lúa thương phẩm.

Các địa phương cần theo dõi diễn biến của lũ, bão và tăng cường kiểm soát tình hình sản xuất lúa Hè Thu để có kế hoạch cụ thể cho vụ Thu Đông. Khi bố trí thời vụ cho lúa Thu Đông cần lưu ý đến thời điểm xuống giống chính vụ lúa Đông Xuân 2021- 2022; chú ý kết thúc xuống giống lúa Thu Đông vào ngày 20/8, tối đa là 30/8/2021.

Việc sử dụng những giống lúa cho vụ Thu Đông cũng cần lưu ý về tính chống chịu với rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá, bệnh cháy lá, cháy bìa lá và giống có độ cứng cây để hạn chế đổ ngã. Từ vụ Hè Thu sang Thu Đông cần có thời gian giãn cách và làm đất, vệ sinh đồng ruộng thật tốt để tiêu hủy nguồn bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá; tiêu hủy rơm rạ hoặc sử dụng các hoạt chất phân hủy rơm rạ để hạn chế ngộ độc hữu cơ.

Kế hoạch sản xuất vụ Thu Đông 2021 vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ gieo sạ 700 nghìn ha; năng suất 55,19 tạ/ha, tăng 0,11 tạ/ha; sản lượng ước đạt 3.864 nghìn tấn. Vụ Mùa 2021, toàn vùng Nam bộ gieo sạ 265 nghìn ha; năng suất 49,58 tạ/ha, tăng 2,59 tạ/ha; sản lượng ước đạt 1.314 nghìn tấn, tăng 71 nghìn tấn./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục