Việt Nam nâng hạng năng lực cạnh tranh – Bài cuối: Cải cách thực chất và toàn diện hơn

07:50' - 30/10/2019
BNEWS TTXVN xin giới thiệu bài viết của bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh thuộc CIEM về sự cải thiện của năng lực cạnh tranh của Việt Nam.
Doanh nghiệp Đồng Nai may hàng xuất khẩu. Ảnh: TTXVN

Với việc tăng ngoạn mục 10 bậc và 3,5 điểm, vươn lên đứng vị trí 67 trong 141 nền kinh tế được Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) xếp hạng, Việt Nam trở thành quán quân trong cuộc đua cải thiện thứ hạng trong Bảng xếp hạng Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019 (GCI 2019). Để hiểu rõ hơn và có những phân tích cụ thể về sự cải thiện của năng lực cạnh tranh của Việt Nam và những giải pháp tiếp tục phát huy trong thời gian tới, TTXVN xin giới thiệu bài viết của bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương - CIEM).

Dưới đây là toàn văn bài viết:

Năm 2019, Việt Nam được WEF đánh giá là nền kinh tế có mức độ cải thiện điểm số và tăng hạng tốt nhất toàn cầu. Năng lực cạnh tranh của Việt Nam tăng 3,5 điểm (từ 58 điểm lên 61,5 điểm) cao hơn điểm trung bình toàn cầu (60,7 điểm) và tăng 10 bậc (từ vị trí 77 lên vị trí 67). Ngoại trừ Singapore và Việt Nam, các nước còn lại trong khu vực ASEAN đều giảm điểm hoặc giảm bậc.

* Những cải thiện vượt trội

Kết quả này đạt được là do 8/12 trụ cột của Việt Nam tăng điểm và tăng nhiều bậc. Trong đó điển hình như: Trụ cột Ứng dụng công nghệ thông tin tăng điểm và tăng hạng nhiều nhất (tăng 25,7 điểm và 54 bậc, từ 43,3 điểm lên 69,0 điểm và theo đó thứ hạng từ vị trí 95 lên vị trí 41). Tiếp đến là Trụ cột Thị trường sản phẩm tăng 23 bậc (từ vị trí 102 lên thứ 79), với các chỉ số về cạnh tranh trong nước đều tăng điểm và tăng hạng, độ mở thương mại được ghi nhận tích cực với việc giảm bớt các rào cản phi thuế.

Bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Nghiên cứu Môi trường kinh doanh và Năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. Ảnh: Xuân Anh/TTXVN

Mức độ năng động trong kinh doanh tăng 12 bậc (từ vị trí 101 lên vị trí 89), với những cải thiện mạnh mẽ trên hầu hết các chỉ số thành phần (ngoại trừ phá sản doanh nghiệp), nhất là những chỉ số thể hiện tăng trưởng các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp có ý tưởng đột phá.

Trụ cột Năng lực đổi mới sáng tạo tăng 6 bậc (từ thứ hạng 82 lên thứ hạng 76). Trụ cột Thể chế tăng 0,3 điểm và 5 bậc (từ vị trí 94 lên vị trí 89). Trong đó, đáng kể nhất là nhóm các chỉ số thể hiện Mức độ định hướng tương lai của Chính phủ tăng mạnh…

Mặc dù Việt Nam có những cải thiện đáng kể về điểm số và thứ hạng của hầu hết các chỉ số thành phần trong 8/12 trụ cột nêu trên, song vẫn còn 3 trụ cột tụt hạng và 1 trụ cột giữ vị trí không đổi. Cụ thể là: trụ cột Ổn định kinh tế vĩ mô không thay đổi điểm số và thứ hạng (giữ ở mức 75 điểm và thứ hạng 64); trụ cột Hệ thống tài chính tăng 1,6 điểm, nhưng giảm 1 bậc; trụ cột Cơ sở hạ tầng tăng 0,5 điểm, nhưng giảm 2 bậc; trụ cột Y tế giảm điểm nhẹ (0,5 điểm, từ 81 điểm xuống 80,5 điểm) và do đó tụt 3 hạng (từ vị trí 68 xuống vị trí 71).

Mặt khác, có đến 8/12 chỉ số trụ cột hiện ở thứ hạng thấp hoặc rất thấp. Các trụ cột có thứ hạng dưới thứ hạng chung về năng lực cạnh tranh (thứ 67) gồm: thể chế (89); cơ sở hạ tầng (77); y tế (71); kỹ năng (93); thị trường sản phẩm (79); thị trường lao động (83); mức độ năng động trong kinh doanh (89) và năng lực đổi mới sáng tạo (76).

Tuy có sự cải thiện nhanh, nhưng năng lực cạnh tranh 4.0 của Việt Nam vẫn chỉ đứng thứ 6 trong ASEAN, sau Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines.

Kết quả cải thiện năng lực cạnh tranh của Việt Nam phần nào phản ánh nỗ lực liên tục trong những năm gần đây của Chính phủ về cải cách môi trường kinh doanh, về thúc đẩy đổi mới sáng tạo để thích ứng và nhảy vọt trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập sâu rộng hơn.

Những nỗ lực cải cách nổi bật như cắt giảm, đơn giản hoá ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh; thay đổi phương thức quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý, kiểm tra chuyên ngành (áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro, chuyển mạnh sang hậu kiểm,…); chú trọng cải thiện các quy định, thủ tục nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi; đẩy mạnh Chính phủ điện tử và giao dịch không dùng tiền mặt; cải cách thanh, kiểm tra doanh nghiệp; giảm chi phí doanh nghiệp; từng bước tạo lập thể chế chính sách vượt trội nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo;… đã đóng góp có ý nghĩa vào kết quả năng lực cạnh tranh 4.0 năm 2019 của Việt Nam.

*Với các giải pháp cụ thể

Tuy vậy, phía trước vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Để tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực cải cách mạnh mẽ, thực chất và toàn diện hơn nữa, nhất là trên các lĩnh vực về thể chế, kỹ năng, môi trường kinh doanh và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Một số giải pháp cụ thể cần chú trọng như:

Về môi trường kinh doanh, cải cách quyết liệt hơn nữa trên các yếu tố của môi trường kinh doanh theo thông lệ quốc tế (như khởi sự kinh doanh, cấp phép xây dựng, đăng ký tài sản, tiếp cận tín dụng, nộp thuế, tạo thuận lợi thương mại, giải quyết tranh chấp và giải quyết phá sản,…); Cải cách thực chất các quy định và thực thi về điều kiện kinh doanh, quản lý và kiểm tra chuyên ngành, thay đổi cách thức quản lý theo thông lệ quốc tế tốt (như quản lý rủi ro, chuyển mạnh sang hậu kiểm thay vì tiền kiểm,…).

Cùng với đó, đẩy mạnh ứng dụng giao dịch điện tử và kết nối dữ liệu giữa các cơ quan quản lý nhà nước; Giám sát và chấn chỉnh hoạt động thanh, kiểm tra doanh nghiệp đảm bảo hoạt động thanh, kiểm tra theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp tuân thủ quy định pháp luật tốt hơn, không trở thành rào cản đối với doanh nghiệp.

Đồng thời, khẩn trương hoàn thiện khung khổ chính sách nhằm tạo thuận lợi cho triển khai thanh toán không dùng tiền mặt với nhiều hình thức thanh toán khác nhau (qua ngân hàng, QR code, ví điện tử,…).

Về kỹ năng, thực hiện hiệu quả các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề, cải cách giáo dục đại học, kết nối doanh nghiệp – nhà trường.

Ngoài ra, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thiết lập cơ chế chính sách vượt trội nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp sáng tạo và đổi mới khoa học công nghệ; Xây dựng và tạo lập cơ chế vận hành Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia.

Với các giải pháp này, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực cải cách mạnh mẽ, thực chất và toàn diện hơn nữa để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế một cách bền vững. Điều này đòi hỏi không chỉ nỗ lực từ Chính phủ mà cần sự chung tay của các bên liên quan, nhất là cộng đồng doanh nghiệp và người dân./.

Xem thêm:

>>Việt Nam nâng hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu - Bài 1: Những yếu tố quyết định

>>Việt Nam nâng hạng năng lực cạnh tranh - Bài 2: Xây dựng môi trường kinh doanh minh bạch

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục