Xúc tiến thương mại sản phẩm công nghệ mở đường cho trí tuệ Việt ra thế giới

14:51' - 31/07/2025
BNEWS Việc phát triển thị trường không chỉ là yêu cầu tất yếu để hiện thực hóa mục tiêu của Nghị quyết 57-NQ/TW mà còn là động lực quan trọng đưa khoa học, công nghệ trở thành nền tảng phát triển bền vững.
Trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới với trọng tâm là đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học – công nghệ, bài toán đưa sản phẩm nghiên cứu, sản phẩm trí tuệ Việt ra thị trường và vươn ra quốc tế ngày càng trở nên cấp thiết. Tuy nhiên, việc kéo sản phẩm khoa học – công nghệ ra khỏi phòng thí nghiệm, thương mại hóa thành công và tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu không hề đơn giản.

Chính vì vậy, những “nút thắt” cố hữu trong hệ sinh thái khoa học và công nghệ vẫn còn tồn tại, khiến nhiều sản phẩm tiềm năng chỉ dừng lại ở nghiên cứu hoặc triển khai ở quy mô hạn chế. Trong khi đó, xu thế toàn cầu hoá và cạnh tranh công nghệ ngày càng gay gắt đòi hỏi phải có chiến lược xúc tiến thương mại mạnh mẽ, bài bản và gắn với thị trường.

Thông tin này được các chuyên gia thương mại đưa ra bàn thảo tại Hội nghị giao ban xúc tiến thương mại với hệ thống Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài tháng 7/2025 do Bộ Công Thương tổ chức ngày 31/7 tại Hà Nội. Đặc biệt, vấn đề xúc tiến thương mại cho sản phẩm khoa học- công nghệ lần đầu tiên được đặt ra một cách trực diện như một lực đẩy quan trọng để biến tiềm năng thành thực tiễn.

Phát biểu khai mạc hội nghị, ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) nhấn mạnh: Hội nhập quốc tế sâu rộng nên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên, thị trường tiêu thụ sản phẩm khoa học, công nghệ tại Việt Nam hiện vẫn còn nhiều rào cản, đặc biệt là sự thiếu liên kết giữa viện nghiên cứu, doanh nghiệp và nhà nước, hạn chế trong việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, cùng với đó là sự thiếu hụt chính sách hỗ trợ dài hạn.

Vì vậy, việc phát triển thị trường cho sản phẩm khoa học, công nghệ không chỉ là yêu cầu tất yếu để hiện thực hóa các mục tiêu của Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Nghị quyết này xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là yếu tố then chốt để Việt Nam phát triển mạnh mẽ, hùng cường trong kỷ nguyên số mà còn là động lực quan trọng để đưa khoa học, công nghệ trở thành nền tảng phát triển bền vững của đất nước.

Theo số liệu từ Bộ Khoa học và Công nghệ, mỗi năm Việt Nam có hàng nghìn kết quả nghiên cứu được công bố, hàng trăm sản phẩm mới ra đời từ các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ thương mại hóa các sản phẩm khoa học- công nghệ vẫn rất khiêm tốn, chỉ khoảng 10-12%. Phần lớn công trình nghiên cứu vẫn nằm trên giấy hoặc chỉ ứng dụng trong nội bộ các viện, trường.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở năng lực thị trường hạn chế, mà còn ở việc thiếu các cơ chế trung gian kết nối giữa nơi sáng tạo (viện, trường) và nơi tiêu thụ (doanh nghiệp, thị trường). Ngoài ra, nhiều nhà nghiên cứu chưa quen tư duy sản phẩm – thị trường, trong khi doanh nghiệp lại ngại đầu tư vào công nghệ vì rủi ro cao, thời gian thu hồi vốn dài.

 

Theo ông Vũ Bá Phú, nhiều sản phẩm khoa học- công nghệ của Việt Nam có chất lượng tốt, phù hợp nhu cầu phát triển bền vững. Nhưng nếu không có cơ chế xúc tiến bài bản, không có thị trường tiêu thụ rõ ràng thì rất khó để lan tỏa và tạo giá trị kinh tế.

Ông Nguyễn Mạnh Hùng – Tham tán Thương mại Việt Nam tại Đức cho hay: Doanh nghiệp Đức đặc biệt quan tâm đến công nghệ tiết kiệm năng lượng, công nghệ xử lý rác thải, nông nghiệp thông minh... Việt Nam hoàn toàn có thể đáp ứng nếu có sản phẩm đạt tiêu chuẩn.

Bà Nguyễn Thị Thu Giang – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký VINASA chia sẻ: Phần mềm và dịch vụ công nghệ thông tin của Việt Nam hiện đã có mặt tại hơn 30 thị trường, nhưng giá trị xuất khẩu vẫn còn nhỏ so với tiềm năng. Vấn đề là Việt Nam thiếu hệ thống xúc tiến quốc tế đủ mạnh để giúp doanh nghiệp tiếp cận nhà đầu tư, nhà phân phối và đối tác chiến lược tại các nước phát triển.

Nhiều doanh nghiệp đổi mới sáng tạo hiện nay gặp khó khăn trong việc tiếp cận các chương trình xúc tiến thương mại, do chính sách hỗ trợ vẫn mang tính ngắn hạn, rời rạc, hoặc chưa phân biệt giữa doanh nghiệp sản xuất truyền thống và doanh nghiệp công nghệ.

Theo ông Trần Minh- Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi xanh (Bộ Công Thương), Xúc tiến thương mại cho sản phẩm khoa học và công nghệ không thể giống xúc tiến cho nông sản hay hàng tiêu dùng. Điều này đòi hỏi quy trình đánh giá khác, thời gian chuẩn bị dài hơn và chi phí lớn hơn để vượt qua các rào cản kỹ thuật, tiêu chuẩn quốc tế.

Hệ sinh thái xúc tiến hiện chưa có các trung tâm xúc tiến chuyên biệt cho sản phẩm khoa học và công nghệ. Các hội chợ, triển lãm quốc tế của Việt Nam vẫn tập trung vào sản phẩm công nghiệp truyền thống. Trong khi đó, việc tham gia các sự kiện công nghệ tầm cỡ quốc tế như CES (Mỹ), Hannover Messe (Đức), TechCrunch (Mỹ), Slush (Phần Lan)... còn phụ thuộc nhiều vào nỗ lực riêng lẻ của doanh nghiệp hoặc tổ chức hỗ trợ.

Việc thiếu các trung gian thương mại công nghệ (technology broker) và nền tảng xúc tiến số quốc gia cũng là rào cản lớn. Hiện chưa có cơ sở dữ liệu toàn diện về sản phẩm KH&CN đã được nghiên cứu và có khả năng thương mại hóa, khiến việc kết nối cung – cầu trở nên khó khăn.

Do đó, các chuyên gia khuyến nghị cần thúc đẩy mô hình “3 nhà” – Nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp phối hợp chặt chẽ để hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo gắn với thị trường; trong đó, vai trò nhà nước kiến tạo là then chốt. Cùng đó, phát triển nền tảng xúc tiến thương mại số cho sản phẩm khoa học- công nghệ, giúp số hóa thông tin sản phẩm, chứng nhận, đánh giá, kết nối với hệ thống xúc tiến nước ngoài.

Tổ chức chương trình xúc tiến tại thị trường mục tiêu, có trọng điểm theo nhóm sản phẩm công nghệ (công nghệ môi trường, nông nghiệp thông minh, AI, phần mềm, công nghiệp xanh…), có hỗ trợ tư vấn tiêu chuẩn quốc tế, đăng ký sở hữu trí tuệ, logistics...Mặt khác, tăng cường sự tham gia của Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, không chỉ làm cầu nối thị trường, mà còn hỗ trợ doanh nghiệp tìm hiểu chính sách, đối tác, tổ chức roadshow, pitching với quỹ đầu tư và nhà nhập khẩu công nghệ.

Ông Đỗ Tiến Thịnh – Phó Giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) – cho biết: Việt Nam đã có hệ sinh thái khởi nghiệp phát triển nhanh nhất ASEAN, với hơn 4.000 startup công nghệ, 208 quỹ đầu tư và gần 1.400 tổ chức hỗ trợ. Năm 2024, tổng vốn đầu tư vào startup Việt đạt hơn 500 triệu USD. Nhưng để bền vững, hệ sinh thái cần được ‘bơm máu’ bằng các chương trình xúc tiến thương mại và kết nối quốc tế mạnh mẽ hơn.

Thực tế đã chứng minh, nhiều doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam có thể “xuất ngoại” thành công khi được hỗ trợ đúng lúc – như công ty giải pháp nông nghiệp thông minh MimosaTEK, công ty công nghệ giáo dục Edupia, startup AI VinBrain, giải pháp dữ liệu mở OpenCPS...

Cục Xúc tiến thương mại cam kết sẽ đồng hành cùng doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong xây dựng chiến lược, tiếp cận thị trường và xúc tiến xuất khẩu sản phẩm trí tuệ Việt. Những sáng tạo made-in-Vietnam không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn là bản sắc, là uy tín quốc gia trong thời đại công nghệ số và toàn cầu hóa. Bởi, chỉ khi sản phẩm khoa học và thực sự bước ra thị trường, cạnh tranh sòng phẳng và được công nhận toàn cầu, Việt Nam mới thực sự vững bước trên con đường phát triển dựa vào đổi mới sáng tạo, tăng trưởng bền vững và khẳng định vị thế quốc gia công nghệ trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục