Bước ngoặt của ngành điện Việt Nam - Bài 1: Dấu mốc những năm 1955 - 1975

13:51' - 02/05/2018
BNEWS Nếu trong giai đoạn 1955-1960, chỉ có 7 nhà máy điện với tổng công suất 100MW thì đến giai đoạn 1960-1975 đã có thêm 8 nhà máy đi vào hoạt động ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam với tổng công suất 841MW.
Công nhân lắp đặt định vị đường dây 500kV Sơn La-Lai Châu. Ảnh: TTXVN

Nhìn lại bức tranh toàn cảnh về ngành điện lực nước ta ở cả hai miền Bắc, Nam giai đoạn 1955-1975, chúng ta nhận thấy có các gam màu đậm, nhạt rất khác nhau, thể hiện sự phát triển không đồng đều, thậm chí mất cân đối nghiêm trọng giữa nguồn và truyền tải, ảnh hưởng lớn đến việc cung ứng năng lượng cho nền kinh tế và đời sống nhân dân.

Theo đánh giá, nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là chế độ chính trị và cơ cấu kinh tế ở cả hai miền khác nhau, đối lập nhau cả về bản chất cũng như phương thức hoạt động.

Ngay cả ở miền Bắc, do phần lớn hoạt động sản xuất điện được cung cấp từ một số nhà máy nhiệt điện cũ (thời kỳ đó có rất ít nhà máy thủy điện lớn) và do các trạm điện chạy dầu điêzen được xây dựng từ thời thực dân Pháp chiếm đóng, hoặc xây dựng trước và trong thời kỳ chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, nên công suất rất thấp, cũng không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu về điện sinh hoạt và điện sản xuất của nhân dân.

Trong hoàn cảnh ấy, vượt lên trên mọi khó khăn, thách thức, Chính phủ quyết tâm tổ chức lại ngành Điện. Ngày 21/7/1955, Bộ Công Thương quyết định thành lập Cục Điện lực để quản lý hệ thống điện lực trên cả nước.

Tuy còn non trẻ, “vạn sự khởi đầu nan”, từ cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, cán bộ, công nhân viên ngành Điện đã vượt mọi khó khăn, thử thách, thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ: “Hiện nay ở miền Nam nước ta chưa được giải phóng, đế quốc Mỹ còn lăm le phá hoại hòa bình, chúng ta phải chống Mỹ một cách thiết thực bằng thi đua tăng năng suất. Tiết kiệm được một cân than, tăng được một ki-lô-oát điện là góp thêm một phần lực lượng đánh vào đế quốc Mỹ”.  

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III vào năm 1960, Đảng ta đã đưa ra chỉ đạo chiến lược phát triển điện lực là: “công nghiệp điện lực đi trước một bước”. Tư tưởng chỉ đạo này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt những năm tháng của cuộc kháng chiến ác liệt chống đế quốc Mỹ xâm lược của dân tộc ta. Nó hiện hữu và phát huy tác dụng to lớn cả trong thời kỳ hòa bình, đổi mới, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

Đảm bảo đường dây truyền tải luôn thông suốt. Ảnh: TTXVN

Ngày 21/12/1961, trước yêu cầu của tình hình mới, Cục Điện lực tách khỏi Bộ Công nghiệp để nhập cùng Bộ Thủy lợi thành Bộ Thủy lợi và Điện lực, rồi trở thành Tổng Cục Điện lực.

Thời đó, một số nhà máy điện mới được xây dựng và đi vào vận hành dẫn đến sự hình thành hàng loạt các sở quản lý và phân phối điện, trên cơ sở tách các chức năng này ra khỏi các nhà máy điện. Ngành xây lắp đường dây và trạm cũng ra đời, là cơ sở để thành lập những công ty lớn tại 3 miền của đất nước những giai đoạn sau .

Vào cuối thập kỷ 60, trong lúc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược đang diễn ra quyết liệt trên cả hai miền Bắc, Nam, tổ chức bộ máy ngành Điện tiếp tục có sự điều chỉnh mới.

Ngày 6/10/1969, Bộ trưởng Bộ Điện và Than ký ban hành Quyết định số 106/QĐ-TC thành lập Công ty Điện lực (ở miền Bắc), trực thuộc Bộ Điện và Than, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế.

Đây là đơn vị đầu tiên của ngành Điện được tổ chức và hoạt động theo các quy định tương tự như một doanh nghiệp nhà nước sau này.   

Lúc đó, mặc dù phải tập trung lực lượng của toàn dân vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn dành một phần ngân sách còn hạn hẹp cho việc phát triển ngành Điện non trẻ, để sửa chữa, bổ sung các cơ sở điện cũ, xây dựng mới một số nhà máy điện, từng bước hình thành một cách có hệ thống nguồn và truyền tải điện của miền Bắc.

Nếu trong giai đoạn từ năm 1955 tới năm 1960, chỉ có 7 nhà máy điện với tổng công suất 100MW thì đến giai đoạn 1960-1975 đã có thêm 8 nhà máy đi vào hoạt động ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam với tổng công suất 841MW.

Vào thời kỳ lịch sử ấy, số lượng các nhà máy nhiệt điện và thủy điện được đầu tư xây dựng lần lượt tăng lên theo thời gian, đáp ứng nhu cầu sử dụng điện năng ngày càng tăng của xã hội. Tuy nhiên, số liệu thống kê cho thấy hầu như không có nhà máy điện có công suất lớn (trên 500MW).

Giai đoạn từ năm 1955 - 1960, số lượng các nhà máy điện được xây dựng ít, công nghệ cũ lạc hậu, công suất của từng nhà máy nhỏ, thậm chí có nhà máy chỉ đạt 6MW, ảnh hưởng đến chất lượng cung cấp điện an toàn và sự phát triển kinh tế, trong khi nhu cầu cần điện cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân đang ngày một tăng lên.

Từ năm 1960 - 1975, tuy có xây dựng và phát triển được một số nhà máy điện mới, có lắp đặt thêm được một số lưới điện truyền tải mới, nhưng cũng chưa đáp ứng được nhiều cho đời sống của nhân dân.

Vì vậy, trong suốt cả giai đoạn 1955 - 1975, ngành Điện miền Bắc chủ yếu vẫn là tập trung sửa chữa, đại tu lại các thiết bị cũ của các nhà máy điện, củng cố, cải tạo, sửa chữa một số dây chuyền sản xuất điện bất hợp lý.

Trong số đó có 5 nhà máy điện tiếp quản từ chế độ cũ (trước năm 1954); các đường dây tải điện Hà Nội - Sơn Tây, Hà Nội - Hà Đông, Phố Nối - Hưng Yên, Thái Bình - Nam Định được phục hồi; các tuyến đường dây cũ 30,5kV được cải tạo thành 35kV và hàng trăm kilômét đường dây 35kV mới được xây dựng đã đưa điện đến các khu công nghiệp và phục vụ sản xuất nông nghiệp; xây dựng đường dây 110kV đầu tiên ở miền Bắc: Đông Anh - Việt Trì, Uông Bí - Hải Phòng.

Các nhà máy điện Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định tổ chức lại sản xuất, cải tiến quản lý xí nghiệp. Thủy điện Tà Sa và đường dây tải điện 6kV nối Thủy điện Tà Sa - Nà Ngần được phục hồi để phục vụ cho mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng).

Một trong những công trình đường dây đang vận hành. Ảnh: TTXVN

Điểm nhấn trong bức tranh điện lực đất nước là ngày 19/5/1961, chúng ta đã khởi công xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí có công suất 48MW là nguồn điện chủ lực lớn nhất cung cấp điện thực hiện chủ trương, đường lối xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Sau 4 năm xây dựng, tới năm 1963 nhà máy đã được khánh thành và đi vào hoạt động. Đây là công trình do Liên Xô giúp xây dựng, cung cấp thiết bị và đào tạo cán bộ, kỹ sư, công nhân viên.

Tiếp đến, ngày 19/8/1964, khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Thác Bà (Yên Bái) có công suất 108MW, khánh thành đợt I và đưa vào vận hành ngày 5/10/1971. Công trình có sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô và là công trình có công suất lớn nhất của nước ta vào thời điểm này.

Sau chiến tranh phá hoại miền Bắc, Nhà máy Thủy điện Thác Bà được khôi phục và đầu năm 1973 cả 3 tổ máy đã được đưa vào tiếp tục vận hành cung cấp lượng điện lớn vào thời điểm ấy cho cả miền Bắc.

Ngày 19/5/1974, Tổ máy số 1 của Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình do Trung Quốc giúp xây dựng bắt đầu hoạt động. Cùng ngày, chúng ta đã khôi phục xong Nhà máy Thủy điện Cống Lân (Thái Bình) - một công trình lớn ngăn nước mặn và tiêu nước cho hơn 3 vạn hécta ruộng ở ba huyện Tiền Hải, Kiến Xương, Vũ Thư.

Tất nhiên, các cơ sở ngành Điện đều trở thành những mục tiêu trọng điểm bị địch tập trung đánh phá dữ dội. Đã có 1.652 trận máy bay Mỹ oanh tạc các cơ sở của ngành Điện và có 11/12 nhà máy điện bị địch bắn phá và rải bom nhiều lần.

Trước thềm mùa xuân đại thắng năm 1975, Điện lực miền Bắc đã hoàn thành việc xây dựng cột điện thép Chèm (Hà Nội) kéo đường dây băng qua sông Hồng, cao 115m. Đây là cột điện cao nhất nước ta lúc bấy giờ./.

>>> Bài 2: Thực trạng lưới điện Bắc-Trung-Nam 

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục