Các mũi nhọn trong chính sách kinh tế Putinomics của Tổng thống Putin (Phần 1)

05:00' - 27/02/2018
BNEWS Nhiều nhà phân tích ở Nga cũng như ở nước ngoài đã cho rằng cuộc khủng hoảng kinh tế có thể đe dọa sự cầm quyền của Tổng thống Vladimir Putin. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh một điều khác.
Các mũi nhọn trong chính sách kinh tế Putinomics của Tổng thống Putin. Ảnh: TTXVN

Vào thời điểm cuối năm 2014, bài viết với tựa đề “Putin chứng kiến sự sụp đổ của nền kinh tế Nga cùng với hình tượng của ông” đã xuất hiện trên tạp chí Time (Mỹ).

Năm 2014 cũng là thời điểm phương Tây áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế khắc nghiệt đối với các ngân hàng, công ty năng lượng và lĩnh vực phòng thủ của Nga, qua đó loại các công ty lớn nhất của nước này ra khỏi các thị trường vốn và thiết bị khoan dầu công nghệ cao quốc tế.

Tuy nhiên, đã ba năm trôi qua kể từ thời điểm giá dầu lao dốc không phanh, làm giảm một nửa giá trị của thứ hàng hóa từng tài trợ đến 50% ngân sách chính phủ của Nga. Giờ đây, mọi chuyện đã khác.

Hiện nay, nền kinh tế Nga đã ổn định, lạm phát ở mức thấp trong lịch sử, ngân sách gần như được cân bằng và Tổng thống Putin đang dần tiến tới khả năng tái cử vào tháng 3/2018, với nhiệm kỳ Tổng thống thứ tư. Ông Putin gần đây đã vượt nhà lãnh đạo Xôviết Leonid Brezhnev để trở thành nhà lãnh đạo lâu đời nhất của Nga kể từ sau thời Joseph Stalin.

Sự ổn định kinh tế đã đảm bảo tỷ lệ ủng hộ đối với ông ở xung quanh mức 80%. Putinomics (chính sách kinh tế của Putin) đã làm cho vị Tổng thống của “xứ Bạch Dương” có thể sống sót qua các cú sốc tài chính và chính trị liên tục. Vậy, ông đã làm được điều đó như thế nào?

Nước Nga đã tồn tại qua thách thức kép là sự sụp đổ về giá dầu và các biện pháp trừng phạt của phương Tây nhờ một chiến lược kinh tế 3 mũi nhọn.

Thứ nhất, trên tất cả, nó tập trung vào sự ổn định kinh tế vĩ mô – duy trì mức nợ và lạm phát thấp. Thứ hai, nó ngăn chặn sự bất đồng trong dân chúng bằng việc đảm bảo tỷ lệ thất nghiệp thấp và trợ cấp đều đặn, thậm chí gây phương hại cho mức lương cao hơn hay tăng trưởng kinh tế.

Thứ ba, nó để cho khu vực tư nhân nâng cao tính hiệu quả, nhưng chỉ ở những nơi không có xung đột với các mục tiêu chính trị. Chiến lược này sẽ không làm cho nước Nga trở nên giàu có hơn, nhưng nó giữ cho nước này ổn định và giới tinh hoa cầm quyền tiếp tục nắm quyền. 

Điều đó phải chăng để nói rằng ông Putin thực sự có một chiến lược kinh tế? Một sự giải thích chung về “tuổi thọ” của Putin là ông tồn tại vì thu nhập từ dầu mỏ của Nga đã giữ cho nước này không bị chìm.

Thêm vào đó, nền kinh tế Nga được biết đến là tham nhũng nhiều hơn là quản lý kinh tế có hiệu quả. Nhưng Điện Kremlin đã có thể đã thực hiện các chính sách kinh tế khác nhau – và một số trong những sự lựa chọn thay thế có thể đã làm cho ông Putin trở nên khó duy trì quyền lực hơn. 

Chúng cũng có thể đã để cho người Nga trở nên tồi tệ hơn. Hãy xem nước Nga như thế nào vào năm 1999 khi ông Putin lần đầu tiên trở thành Tổng thống: một đất nước có thu nhập trung bình trong đó lợi nhuận từ dầu mỏ đóng góp đáng kể vào GDP. Một đất nước được dẫn dắt bởi một trung tá trẻ tuổi cam kết sử dụng các cơ quan an ninh để tăng cường quyền lực của mình. 

Một Tổng thống có được tính hợp pháp dân chủ một phần dựa vào khả năng của ông trong việc buộc doanh nghiệp lớn và giới đầu sỏ phải tuân theo những nguyên tắc của ông dù bằng công cụ công bằng hay phạm luật.

Mục đích của Kremlin trong chính sách kinh tế không phải là tăng tới mức tối đa GDP hay thu nhập hộ gia đình. Một mục tiêu như vậy có lẽ đã đòi hỏi một loạt chính sách rất khác biệt.

Nhưng đối với các mục tiêu của Kremlin là duy trì sức mạnh ở trong nước và duy trì sự linh hoạt triển khai nó ở nước ngoài, chiến lược 3 mũi nhọn của Putinomics – sự ổn định kinh tế vĩ mô, sự ổn định thị trường lao động và sự kiểm soát có giới hạn của nhà nước đối với các khu vực có tầm quan trọng chiến lược – đã có hiệu quả.

Hãy bắt đầu với sự ổn định kinh tế vĩ mô. Nga là nước tương đối hiếm khi được điểm cao từ IMF về sự quản lý kinh tế của mình. Tại sao vậy? Kể từ khi ông Putin bắt đầu cầm quyền, ông và giới tinh hoa Nga nhìn chung ưu tiên trả nợ, duy trì thâm hụt thấp và hạn chế lạm phát.

Tồn tại qua những cuộc khủng hoảng kinh tế đầy thảm họa năm 1991 và 1998, các nhà lãnh đạo Nga biết rằng các cuộc khủng hoảng ngân sách và vỡ nợ có thể hủy diệt sự được lòng dân của một vị Tổng thống và thậm chí lật đổ một chế độ, như Boris Yeltsin và Mikhail Gorbachev đều phát hiện ra. 

Khi Tổng thống Putin lần đầu tiên nhậm chức, ông đã dành phần lớn khoản thu được từ dầu mỏ của Nga để trả nợ nước ngoài của nước này trước hạn. Trong cuộc khủng hoảng hiện nay, Nga đã cắt giảm mạnh chi tiêu cho các dịch vụ xã hội nhằm đảm bảo rằng ngân sách vẫn gần được cân bằng.

Năm 2014, các khoản thu từ dầu mỏ và khí đốt đóng góp khoảng một nửa ngân sách chính phủ của Nga. Hiện nay, thương mại dầu mỏ chỉ bằng một nửa mức của năm 2014, nhưng nhờ những cắt giảm ngân sách mạnh mẽ, thâm hụt của Nga chỉ vào khoảng 1% GDP – thấp hơn nhiều so với hầu hết các nước phương Tây. 

Tổng thống Putin đã ủng hộ ngân hàng trung ương Nga (BoR) khi ngân hàng này nâng lãi suất - điều đã hạn chế lạm phát nhưng cũng kiềm chế tăng trưởng. Logic của Điện Kremlin là người Nga muốn ổn định kinh tế là trên hết.

Trong khi đó, giới tinh hoa Nga biết họ cần sự ổn định để tiếp tục nắm quyền. Để đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô, Điện Kremlin đã thực hiện chương trình khắc khổ tài chính kể từ năm 2014, nhưng hầu như không có sự phàn nàn gì./.

 

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục