Chìa khóa vượt qua “vùng trũng” sản xuất gia công

14:16' - 06/08/2025
BNEWS Trước làn sóng tái cấu trúc chuỗi cung ứng sản xuất toàn cầu và gia tăng rào cản thương mại, nhiều doanh nghiệp Việt vẫn đang dừng lại ở vai trò gia công hay phát triển thương hiệu riêng.

Trước làn sóng tái cấu trúc chuỗi cung ứng sản xuất toàn cầu, chuyển dịch dòng vốn đầu tư xuyên biên giới và gia tăng rào cản thương mại, thì nhiều doanh nghiệp Việt vẫn đang dừng lại ở vai trò gia công, chưa làm chủ công nghệ lõi hay phát triển thương hiệu riêng. Đồng thời, một trong những cản trở lớn để doanh nghiệp sản xuất Việt tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu mà các chuyên gia chỉ ra là quy tắc xuất xứ hàng hóa.

* Chuẩn hóa quản trị sản xuất

Theo các chuyên gia, ngày càng nhiều doanh nghiệp Việt đã và đang chủ động nhận diện cả cơ hội lẫn thách thức của tiến trình hội nhập. Trong chiến lược phát triển dài hạn, doanh nghiệp Việt cũng xác định tận dụng tối đa Hiệp định Thương mại tự do (FTA) là chìa khóa then chốt giúp duy trì đà tăng trưởng, thu hút đầu tư và củng cố vị thế trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, trong bối cảnh môi trường thương mại toàn cầu diễn biến phức tạp, Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) đã trở thành công cụ không thể thiếu giúp doanh nghiệp đảm bảo tuân thủ quy định, tận dụng ưu đãi thuế quan và xây dựng niềm tin với đối tác quốc tế. Đặc biệt, tại thời điểm này thì định nghĩa chính xác về những yêu cầu mới do Hoa Kỳ áp đặt đối với khái niệm hàng hóa “trung chuyển” vẫn còn chưa rõ ràng.

 
Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) Jean-Jacques Bouflet cho biết, sự mơ hồ đối với khái niệm hàng hóa “trung chuyển” có thể ảnh hưởng đến việc áp dụng Quy tắc xuất xứ trong các FTA, nhất là khi nguyên liệu nhập khẩu được sử dụng trong quá trình sản xuất tại Việt Nam. Chính vì vậy, EuroCham tiếp tục ủng hộ việc loại bỏ thêm rào cản kỹ thuật và phi kỹ thuật trong thương mại, đưa ra những hướng dẫn rõ ràng hơn, định giá hải quan và cơ chế tham chiếu chéo nhất quán giữa các cơ quan hải quan trong và giữa các nước.

“Những biện pháp nêu trên, có vai trò quan trọng để tăng cường khả năng phục hồi chuỗi cung ứng và bảo đảm rằng doanh nghiệp có thể tự tin thích ứng, mở rộng hoạt động. Nhìn rộng hơn, chúng phản ánh tầm quan trọng của việc các nền kinh tế duy trì giá trị chung và tôn trọng cam kết FTA hiện có, nhất là trong bối cảnh môi trường thương mại toàn cầu ngày càng phức tạp”, Phó Chủ tịch EuroCham Jean-Jacques Bouflet phân tích thêm.

Ghi nhận thực tế, nhiều FTA thế hệ mới ngày càng siết chặt tiêu chuẩn xuất xứ, chất lượng và quản trị bền vững. Trước bối cảnh này, doanh nghiệp sản xuất Việt Nam không chỉ cần nâng cấp máy móc, mà còn phải chuẩn hóa toàn bộ quy trình sản xuất, minh bạch chuỗi cung ứng và nâng tầm năng lực quản trị theo chuẩn quốc tế.

Mặt khác, mức thuế đối ứng 20% của Hoa Kỳ áp dụng với hàng hóa Việt Nam vừa công bố mới đây cũng khiến doanh nghiệp Việt đối mặt với chi phí tăng cao, áp lực minh bạch nguồn gốc và rủi ro mất đơn hàng, trong khi đây là thị trường xuất khẩu lớn nhất và là đối tác thương mại lớn thứ 2 của Việt Nam. Bà Trương Thị Chí Bình, Phó chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI) cho hay, thuế đối ứng Hoa Kỳ tác động trực tiếp đến một số ngành sản xuất tiêu biểu như điện tử, dệt may và da giày, gỗ và nội thất…

Còn ở lĩnh vực đầu tư, thuế đối ứng Hoa Kỳ dẫn đến MNCs (đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các công ty đa quốc gia) chuyển dịch, ảnh hưởng đến việc làm và chuỗi cung ứng. Điều này cũng tác động lan tỏa đến ngành công nghiệp hỗ trợ, logistics, tài chính… trong khi đó hàng hóa của hàng loạt quốc gia nhập khẩu vào Việt Nam không chỉ cạnh tranh bằng tiêu chuẩn chất lượng mà với giá rẻ.

Liên quan đến chuẩn hóa quản trị sản xuất, bà Trương Thị Chí Bình, doanh nghiệp Việt Nam cho rằng, cần tăng cường kiểm soát xuất xứ nguồn gốc sản phẩm để ứng phó thuế chống phá giá; cải thiện sản xuất trong nước và khả năng cạnh tranh bằng nâng cao năng lực nội tại. Song song đó, thông qua các FTA mà Việt Nam tham gia để đa dạng hóa thị trường như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN và thị trường mới nổi, cũng như tăng cường nhập khẩu từ Hoa Kỳ.

Ngoài ra, những hạn chế tồn tại trong doanh nghiệp sản xuất Việt còn có thể kể đến là năng lực sản xuất thiết bị gốc (OEM), thiết kế gốc (ODM) và thương hiệu gốc (OBM). Mặc dù trên thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt đang làm OEM, nhưng đa số là gia công đơn lẻ, chỉ có một số ít có thể sản xuất cụm linh kiện.

“Điển hình, ở ngành ô tô thì hiện nay có nhiều doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước đã cung cấp cho những thương hiệu xe hơi lớn nhưng chỉ dừng lại ở khâu gia công linh kiện đơn lẻ, không phải cụm linh kiện. Tương tự, nhiều doanh nghiệp ngành điện tử cũng không dễ dàng trên hành trình chinh phục và tham gia vào chuỗi cung ứng của tập đoàn lớn”, bà Trương Thị Chí Bình nhấn mạnh.

* Tận dụng “đòn bẩy” từ chính sách

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Hồ Ngọc Toàn, Công ty Automech JSC cho hay, doanh nghiệp Việt hầu hết quy mô nhỏ, vốn ít… nên tổ chức thành lập một nhà máy rất khó vì giá thuê đất trong khu công nghiệp khá cao, trong khi đó còn phải đầu tư cơ sở vật chất ban đầu, trang thiết bị máy móc. Hơn thế nữa, khi làm với đối tác nước ngoài mà hầu hết các doanh nghiệp Việt đều gặp phải là quy trình sản xuất và tiêu chuẩn.

Trước cơ hội và thách thức của cộng đồng doanh nghiệp sản xuất Việt, bà Lê Nguyễn Duy Oanh, Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển Công nghiệp hỗ trợ TP. Hồ Chí Minh khuyến khích, doanh nghiệp chú trọng nhận điện, hiểu khách hàng của mình là ai và yêu cầu của họ là gì.

Riêng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, để không bỏ lại trong chuỗi cung ứng nội địa lẫn toàn cầu thì liên kết năng lực nội tại, tạo chuỗi cung ứng lớn là một trong những giải pháp đáp ứng đơn hàng của doanh nghiệp FDI trong nước và vươn ra thị trường toàn cầu.

Bởi muốn vượt qua “vùng trũng” sản xuất gia công, doanh nghiệp phải thay đổi tư duy, đầu tư nghiêm túc vào R&D, làm chủ thiết kế và nâng tầm quản trị vận hành sản xuất. Bên cạnh đó, doanh nghiệp chú trọng tận dụng hiệu quả sự hỗ trợ chính sách từ Nhà nước và sự kết nối trong cộng đồng ngành nghề, lĩnh vực và đây là đòn bẩy cho doanh nghiệp sản xuất Việt chuyển mình mạnh mẽ hơn.

Hiện nay, Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện; đồng thời đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu điện thoại và linh kiện. Với vai trò hiệp hội, bà Đỗ Thị Thúy Hương, Ủy viên BCH Hiệp hội Doanh nghiệp Điện tử Việt Nam, Phó chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ đề xuất, doanh nghiệp nên tận dụng mọi cơ hội hỗ trợ từ Chính phủ, các bộ, ngành để phát triển thị trường xuất khẩu, bên cạnh giữ vững chuỗi cung ứng nội địa. Cùng với đó, doanh nghiệp đẩy mạnh chuyển đổi số và thương mại điện tử, đồng thời ứng dụng trong công nghệ quản lý thì có thể tiết kiệm và giảm được chi phí.

“Doanh nghiệp cần đa dạng thị trường xuất khẩu, tận dụng 17 FTA mà Việt Nam đã ký với gần 70 nền kinh tế; nghiên cứu thị trường tiềm năng (Ấn Độ, Trung Đông, châu Phi…); đầu tư vào nghiên cứu thị trường và xây dựng thương hiệu tại thị trường mới… Một trong những giải pháp quan trọng nữa, là doanh nghiệp cũng cần tái cơ cấu sản xuất và nâng cao giá trị gia tăng theo hướng đầu tư vào công nghệ và sản phẩm xanh, chuyển đổi sản xuất bền vững như sử dụng năng lượng tái tạo, vật liệu thân thiện môi trường… để đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe của Hoa Kỳ và các thị trường phát triển”, bà Đỗ Thị Thúy Hương chia sẻ thêm.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục