EVN tạo nền tảng cho tăng trưởng và chuyển dịch năng lượng giai đoạn tới

11:23' - 29/12/2025
BNEWS Phát biểu tại Hội nghị tổng kết năm 2025 của EVN, Quyền Bộ trưởng Bộ Công Thương Lê Mạnh Hùng nhấn mạnh EVN chịu áp lực lớn trong bảo đảm cung ứng điện nhưng đã vượt khó, hoàn thành nhiệm vụ.

Hội nghị tổng kết công tác năm 2025 và triển khai nhiệm vụ năm 2026 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) diễn ra ngày 29/12 tại Hà Nội, Quyền Bộ trưởng Bộ Công Thương Lê Mạnh Hùng nhấn mạnh, EVN là doanh nghiệp duy nhất được Chính phủ giao vai trò người mua điện, chịu áp lực lớn trong bảo đảm cung ứng điện. Năm 2025, EVN vượt khó hoàn thành nhiệm vụ, tạo nền tảng cho tăng trưởng và chuyển dịch năng lượng giai đoạn tới.

“Trong thời gian tham gia Quốc hội, tôi đã nhiều lần trao đổi, làm rõ với các đại biểu để hiểu đúng vai trò này,  nhiều nguồn điện nhưng chỉ có một người mua duy nhất, theo quy định của Nhà nước và phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế”- Quyền Bộ trưởng Lê Mạnh Hùng chia sẻ.

Theo quyền Bộ trưởng Bộ Công Thương, trong sáu ngành công nghiệp nền tảng, năng lượng là ngành đi trước và trong lĩnh vực năng lượng thì điện là cốt lõi. Xu hướng điện hóa nền kinh tế gắn với chuyển dịch năng lượng là tất yếu, vì vậy vai trò và sức ảnh hưởng của EVN ngày càng quan trọng đối với ổn định và phát triển kinh tế vĩ mô.

Đánh giá kết quả năm 2025, Quyền Bộ trưởng Bộ Công Thương bày tỏ sự phấn khởi khi theo dõi báo cáo và các tư liệu trực quan do Tổng giám đốc EVN Nguyễn Anh Tuấn trình bày. Dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn chưa từng có, thiên tai cực đoan, bão, lũ bất thường, phụ tải tăng cao nhưng EVN vẫn hoàn thành khối lượng công việc rất lớn, đạt nhiều thành tựu quan trọng, góp phần hoàn thành mục tiêu chung của cả nhiệm kỳ.

Thành quả nổi bật đầu tiên, theo quyền Bộ trưởng Bộ Công Thương là EVN đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương, Cục Điện lực và Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và Thị trường điện Quốc gia (NSMO) bảo đảm cung ứng điện kịp thời, đầy đủ cho phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Hình ảnh người lao động ngành điện bám trụ từ đô thị đến vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo để giữ dòng điện thông suốt đã để lại nhiều xúc động.

Quyền Bộ trưởng nhấn mạnh, EVN cần triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm cải thiện hiệu quả tài chính, nâng cao chất lượng báo cáo tài chính và từng bước xử lý tình trạng lỗ lũy kế. Theo ông, EVN là doanh nghiệp có nền tảng và năng lực mạnh, tuy nhiên nếu các chỉ tiêu tài chính chưa được cải thiện sẽ gây khó khăn trong việc thu xếp vốn và làm việc với các đối tác. Bộ Công Thương sẵn sàng phối hợp, hỗ trợ EVN trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao.

Theo Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) Nguyễn Anh Tuấn, đến cuối năm 2025, quy mô hệ thống điện Việt Nam đứng thứ 2 khu vực ASEAN về công suất nguồn điện, khẳng định vai trò trụ cột của ngành điện trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Sau khi hoàn thành các nhiệm vụ chủ yếu năm 2025, EVN bước vào giai đoạn 2026–2030 với yêu cầu cao hơn về bảo đảm cung ứng điện, đầu tư hạ tầng điện đồng bộ và thúc đẩy chuyển dịch năng lượng bền vững, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước.

EVN cho biết, đến cuối năm 2025, tổng công suất nguồn điện toàn hệ thống (không bao gồm nhập khẩu điện) đạt khoảng 87.600 MW, tăng khoảng 6.400 MW so với năm 2024. Trong cơ cấu nguồn điện, năng lượng tái tạo đạt 24.453 MW, chiếm 27,9%, nhiệt điện than khoảng 28.100 MW, chiếm 32,1%, thủy điện đạt 24.640 MW, chiếm 28,1%. Với quy mô này, hệ thống điện Việt Nam xếp thứ 2 trong ASEAN về công suất nguồn điện.

Cùng với phát triển nguồn điện, năm 2025, EVN và các đơn vị đã khởi công 215 công trình lưới điện và hoàn thành đóng điện 260 công trình, bổ sung khoảng 27.000 MVA công suất trạm biến áp và 3.900 km đường dây, góp phần nâng cao năng lực truyền tải và độ tin cậy cung cấp điện trên toàn hệ thống.

Các tổng công ty điện lực đã nỗ lực thu xếp nguồn vốn để đầu tư cấp điện cho các hộ dân chưa có điện tại địa bàn khó khăn thuộc các tỉnh Điện Biên, Tuyên Quang, Lai Châu, Sơn La, Kiên Giang, Quảng Trị... cấp điện cho hơn 5.000 hộ dân chưa có điện. Đặc biệt, triển khai đầu tư cấp điện cho 129 thôn bản lõm sóng, lõm điện tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa khu vực miền Bắc, miền Trung theo chỉ đạo của Chính phủ. Kết quả đến cuối năm 2025, số xã có điện trên cả nước đạt 100% và số hộ dân được sử dụng điện đạt 99,85%; trong đó, số hộ dân nông thôn có điện đạt 99,77%.

EVN đã báo cáo, kiến nghị các bộ, ngành kiến nghị Thủ tướng Chính phủ ưu tiên bố trí nguồn vốn ngân sách nhà nước để triển khai các dự án cấp điện lưới quốc gia khu vực  nông thôn, miền núi, hải đảo giai đoạn 2026-2030 nhằm xóa các điểm thiếu điện ở các thôn, bản làng trên địa bàn cả nước, với tổng mức đầu tư khoảng 23.500 tỷ đồng.

Bước sang giai đoạn 2026–2030, EVN xác định mục tiêu xuyên suốt là bảo đảm cung ứng điện an toàn, liên tục cho nền kinh tế tăng trưởng hai con số, theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh. Dự kiến điện thương phẩm toàn quốc đến năm 2030 đạt 500,4–557,8 tỷ kWh, tương ứng tốc độ tăng trưởng bình quân 10,3 - 12,5%/năm.

EVN đặt mục tiêu đến năm 2030, độ tin cậy cung cấp điện và chỉ số tiếp cận điện năng thuộc tốp 3 nước dẫn đầu ASEAN, đồng thời giảm tỷ lệ điện dùng cho truyền tải và phân phối xuống 5,8%.

Trong giai đoạn này, EVN tập trung tăng tốc đầu tư các dự án nguồn và lưới điện theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, với mức đầu tư hằng năm tối thiểu 120.000 tỷ đồng.

Về nguồn điện, EVN và các đơn vị thành viên dự kiến hoàn thành 12 dự án nguồn điện với tổng công suất 5.160 MW, bao gồm các dự án nhiệt điện, LNG, thủy điện tích năng và thủy điện mở rộng; phấn đấu khởi công dự án LNG Quảng Trạch III năm 2026, hoàn thành năm 2030. Đồng thời, EVN tập trung nguồn lực triển khai dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, cải tạo, nâng cấp và chuyển đổi nhiên liệu các nhà máy điện hiện hữu, giảm phát thải theo lộ trình được phê duyệt.

Về lưới điện, EVN đẩy mạnh đầu tư các công trình truyền tải 500 kV, 220 kV liên vùng, liên miền, tăng cường liên kết, nhập khẩu điện từ các nước trong khu vực, xây dựng hệ thống truyền tải ven biển, hướng tới lưới điện thông minh, lưới điện số, đủ khả năng tích hợp tỷ trọng cao năng lượng tái tạo.

EVN xác định 7 nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn 2026–2030; trong đó, tập trung vào bảo đảm cung ứng điện, tăng tốc đầu tư nguồn và lưới điện, nâng cao quản trị doanh nghiệp, phát triển nguồn nhân lực, đột phá khoa học công nghệ - chuyển đổi số, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng.

Đặc biệt, EVN nhấn mạnh 3 khâu đột phá gồm: quản trị doanh nghiệp minh bạch, tinh gọn và hiệu quả; tăng tốc đầu tư xây dựng nguồn và lưới điện; đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Riêng năm 2026, EVN đặt mục tiêu đảm bảo cung ứng điện an toàn, ổn định cho phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và các sự kiện chính trị – xã hội lớn. Tập đoàn dự kiến điện thương phẩm đạt khoảng 309,32 tỷ kWh, tổng vốn đầu tư toàn EVN đạt 123.560 tỷ đồng, chỉ số SAIDI khoảng 210 phút, phấn đấu sản xuất kinh doanh có lợi nhuận, từng bước lành mạnh hóa tình hình tài chính.

Với định hướng và giải pháp đồng bộ, EVN kỳ vọng tiếp tục giữ vai trò nòng cốt trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, xây dựng hệ thống điện hiện đại, bền vững, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và dài hạn của đất nước; trong đó, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo được xác định là một trong những động lực then chốt.

Giám đốc Công ty Viễn thông Điện lực và Công nghệ thông tin (EVNICT) thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), ông Nguyễn Minh Khiêm cho biết, trong bối cảnh chuyển đổi mạnh mẽ về địa giới hành chính, yêu cầu “năng lượng đi trước một bước” và khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số được xác định là đột phá hàng đầu theo các Nghị quyết 70-NQ/TW, 57-NQ/TW và 202-NQ/QH, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã đạt nhiều kết quả nổi bật trong công tác chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.

Theo báo cáo tham luận do Công ty Viễn thông điện lực và Công nghệ thông tin (EVN ICT) trình bày, đến nay EVN đã xử lý hơn 2,9 triệu hồ sơ trên môi trường điện tử; vận hành khoảng 26 triệu công tơ điện tử đọc dữ liệu từ xa qua hệ thống EVNHES; quản lý gần 32 triệu khách hàng bằng hợp đồng mua bán điện điện tử trên hệ thống CMIS, cung cấp dịch vụ và tiện ích qua ứng dụng chăm sóc khách hàng dùng chung toàn EVN.

Trong lĩnh vực kinh doanh và dịch vụ khách hàng, hơn 380 triệu hóa đơn điện tử đã được phát hành, tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt đạt 99,99%. Hệ thống báo cáo, phân tích dữ liệu trên nền tảng BI tiếp tục được hoàn thiện, phục vụ hiệu quả công tác điều hành và ra quyết định.

Việc quản lý kỹ thuật được số hóa toàn diện với hàng triệu hồ sơ thiết bị, dữ liệu lưới điện và nhà máy điện được quản lý tập trung trên các hệ thống PMIS, OMS. Nhiều giải pháp bảo dưỡng theo độ tin cậy (RCM), theo tình trạng (CBM) được áp dụng, góp phần nâng cao độ tin cậy cung cấp điện và an toàn vận hành hệ thống.

Ở lĩnh vực tài chính – kế toán và quản trị nội bộ, hệ sinh thái số tài chính EVN được mở rộng, kết nối 226 đơn vị, xử lý hàng triệu hóa đơn điện tử và giao dịch thanh toán qua cổng kết nối tập trung. Trong đầu tư xây dựng, EVN đã ứng dụng công nghệ AI giám sát gần 14 triệu hình ảnh thi công, triển khai các hệ thống IMIS 2.0, đấu thầu điện tử, giám sát trực tuyến tại công trường.

Song song với chuyển đổi số, phong trào đổi mới sáng tạo trong EVN tiếp tục lan tỏa mạnh mẽ với khoảng 500 đề tài khoa học - công nghệ và gần 7.800 sáng kiến được triển khai, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh.

Năm 2026, EVN xác định tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm như hiện đại hóa công tác phát triển phần mềm giai đoạn 2026–2030, phát triển hạ tầng viễn thông phục vụ điều hành sản xuất – kinh doanh, đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, tái cấu trúc hệ thống phần mềm dùng chung và tiếp tục xây dựng các cơ sở dữ liệu tập trung, đồng bộ trong toàn Tập đoàn.

 

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục