Gỡ rào cản cho ngành sữa phát triển bền vững

14:37' - 05/08/2025
BNEWS Ngày 5/8, tại Hà Nội, Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương (Bộ Công Thương) tổ chức Hội thảo khoa học "Phát triển ngành sữa Việt Nam giai đoạn đến năm 2023, tầm nhìn đến năm 2045".

* Nhiều dư địa thúc đẩy phát triển sản xuất sữa tươi trong nước

Theo số liệu của Bộ Công Thương, ngành sữa Việt Nam đã có nhiều bước tiến đáng kể trong hơn một thập kỷ qua. Doanh thu toàn ngành tăng từ khoảng 4,4 tỷ USD năm 2017 lên 5 tỷ USD vào năm 2022 và đạt hơn 5,03 tỷ USD năm 2023. 

 

Đáng chú ý, tổng đàn bò sữa của cả nước có sự tăng trưởng với tốc độ trung bình khoảng 4,6%/năm, từ 228.000 con năm 2014 lên khoảng 335.000 con vào năm 2024. Sản lượng sữa tươi nguyên liệu cũng ghi nhận mức tăng trưởng gần 8,4%/năm, từ 550.000 tấn (2014) lên trên 1,2 triệu tấn (2024) giúp Việt Nam tự chủ được khoảng 40% sữa tươi nguyên liệu trong nước.

Trong khi đó, mỗi năm, chi phí nhập khẩu sữa và các sản phẩm từ sữa rất lớn, tính riêng năm 2024 là khoảng hơn 1 tỷ USD, trong đó chủ yếu là sữa bột.

Theo số liệu thống kê, mức tiêu thụ sữa bình quân đầu người tại Việt Nam vẫn còn khá thấp so với nhiều quốc gia phát triển. Hiện tại, người Việt tiêu thụ trung bình khoảng 36 kg/người/năm, trong khi con số này ở Đan Mạch là 394 kg, Mỹ 228 kg, Pháp 251 kg... 

Theo số liệu trên, các chuyên gia cho rằng, dư địa tăng trưởng của ngành sữa Việt Nam còn rất lớn, đặc biệt trong bối cảnh thu nhập và nhận thức về dinh dưỡng đang ngày càng cải thiện.

Bên cạnh đó, ngành sữa đã chứng kiến sự thay đổi đáng kể về cơ cấu sản phẩm, đặc biệt trong ngành sữa nước. Tỷ lệ sữa nước chế biến từ sữa bột hoàn nguyên giảm mạnh, từ 92% (năm 2008) xuống còn 48,6% (năm 2020) và tiếp tục giảm còn 32,3% vào năm 2023.

Ngược lại, tỷ lệ sử dụng sữa tươi trong chế biến đã tăng từ 8% lên 67,7% trong cùng giai đoạn. Sự đảo chiều này này phản ánh xu hướng minh bạch và nâng cao chất lượng trong ngành, khi sữa tươi – với lợi thế giữ được giá trị dinh dưỡng tự nhiên tốt hơn - đang dần chiếm ưu thế.

Chia sẻ tại hội thảo, ông Ngô Minh Hải - Chủ tịch HĐQT Tập đoàn TH khẳng định: “Việt Nam hoàn toàn có đủ điều kiện để tự chủ sản xuất sữa tươi cho toàn dân”, với dẫn chứng chính là hình mẫu thành công của TH true MILK – đơn vị được giá tiên phong trong "cuộc cách mạng sữa tươi sạch".

Ông Hải cho biết, năm 2008, Tập đoàn TH bước chân vào ngành sữa khi thế giới có sự cố sữa nhiễm melamine tại Trung Quốc gây nguy cơ chảy máu thận hàng triệu trẻ em. Thời điểm đó, 92% sản phẩm sữa nước trên thị trường sữa Việt là sữa hoàn nguyên (các công ty nhập khẩu sữa bột – một lượng lớn là nhập từ Trung Quốc - rồi pha lại thành dạng lỏng). 

"Sau gần 15 năm khởi dựng, TH đã góp phần thay đổi bản chất ngành sữa nước, giúp tăng tỷ lệ sữa nước chế biến từ sữa tươi từ 8% (năm 2008) lên trên 60% như hiện nay. Tập đoàn hiện sở hữu cụm trang trại bò sữa tập trung ứng dụng công nghệ cao khép kín lớn nhất thế giới (xác lập kỷ lục năm 2020), với đàn bò tiệm cận 70.000 con, sản lượng sữa tươi nguyên liệu đạt 351 triệu lít" - Chủ tịch HĐQT tập đoàn TH chia sẻ.

* Gỡ rào cản về chính sách 

Theo đánh giá của Bộ Công Thương, một trong những thách thức nổi bật hiện nay là sự thiếu đồng bộ và lạc hậu trong hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật – đặc biệt đối với các sản phẩm sữa dạng lỏng.

Đồng quan điểm này, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội chăn nuôi Việt Nam cho rằng, nhiều quy định về tiêu chuẩn chất lượng và quy chuẩn kỹ thuật đối với sữa và sản phẩm từ sữa không minh bạch, rõ ràng, thiếu đồng bộ và thống nhất giữa các bộ, ngành gây khó khăn cho người sản xuất và lựa chọn của người tiêu dùng.

Bên cạnh đó, việc quản lý sữa và các sản phẩm từ sữa nhập khẩu còn nhiều bất cập, đang gây bất lợi cho sản xuất trong nước, nhất là đối với người chăn nuôi và các doanh nghiệp chế biến sản phẩm sữa từ nguồn nguyên liệu trong nước...

Nhiều chuyên gia cũng cho rằng, hiện nay cần phải làm rõ sữa tươi và sữa hoàn nguyên, bởi người tiêu dùng chưa hiểu rõ về hai loại sữa này và dễ nhầm lẫn. Trong khi đó, tại các nước phát triển, sản phẩm sữa nước hầu hết đều chế biến từ sữa tươi nguyên liệu; ở nhiều quốc gia khác đã có bước đi quyết liệt nhằm chuẩn hóa định nghĩa và chất lượng sữa. Đơn cử, Trung Quốc đã chính thức cấm sử dụng sữa bột hoàn nguyên trong sản xuất sữa tiệt trùng (Phụ lục sửa đổi số 1 của tiêu chuẩn GB 25190 - 2010, có hiệu lực từ 16/9/2025), nhằm thúc đẩy ngành sữa nội địa và bảo vệ người tiêu dùng.

Theo TS Nguyễn Văn Hội - Viện trưởng Viện nghiên cứu Chiến lược, chính sách Công Thương, thực tiễn này cho thấy tính cấp thiết của việc sửa đổi hệ thống quy chuẩn quốc gia, đặc biệt là việc định danh rõ ràng các sản phẩm sữa dạng lỏng theo đúng bản chất nguyên liệu. Đây không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là bước then chốt nhằm thiết lập trật tự thị trường, nâng cao tính minh bạch về nguyên liệu đầu vào, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thúc đẩy phát triển bền vững ngành sữa Việt Nam.

Vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài cho biết, sắp tới Bộ Công Thương sẽ có văn bản quy định rõ hai loại sữa này, đồng thời các đơn vị sản xuất phải ghi rõ trên nhãn hàng.

Để phát triển ngành sữa, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn TH cũng đã phác thảo một lộ trình cụ thể dựa trên kinh nghiệm thành công của mình, trong đó nhấn mạnh sự vượt trội trong năng suất, chất lượng của mô hình chăn nuôi tập trung, công nghệ cao.

Mục tiêu được đặt ra là gia tăng sản lượng sữa tươi nguyên liệu đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước (từ 40% hiện nay lên 58% năm 2035) và cao hơn nữa (74% những năm sau đó); nâng tỷ lệ sữa nước chế biến từ sữa tươi lên tới 90-93%, tiệm cận với các quốc gia phát triển.

Để đạt được điều này, TH đã đưa ra hai kịch bản phát triển đàn bò. Thứ nhất, là mô hình chăn nuôi tập trung, công nghệ cao. Nếu 100% đàn bò được nuôi theo mô hình này, với năng suất cao hàng đầu khu vực là 35 lít/con/ngày như của TH, Việt Nam sẽ cần một đàn bò khoảng 700.000 đến 1 triệu con vào năm 2035; Tốc độ tăng trưởng sản xuất sữa tươi nguyên liệu cần duy trì ở mức 11% mỗi năm.

Thứ 2 là mô hình chăn nuôi hỗn hợp (chăn nuôi tại nông hộ, chăn nuôi tập trung) như hiện nay: Do năng suất trung bình của bò nuôi theo mô hình này thấp hơn, để đạt được cùng sản lượng sữa tươi, tổng đàn bò cần phải tăng gần gấp đôi so với mô hình chăn nuôi tập trung, ước tính khoảng 1,2 triệu con.

Đồng quan điểm với đề xuất này của tập đoàn TH, ông Nguyễn Xuân Dương khẳng định, quy mô đàn bò sữa của Việt Nam là chưa tương xứng với tiềm năng. Nếu xét về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội, thì Việt Nam hiện nay có không gian chăn nuôi gia súc cho sữa rộng lớn hơn Nhật Bản và Israel.

"Chúng ta hoàn toàn có thể đưa được đàn bò sữa lên gấp 4 - 5 lần so với con số hiện nay trong những năm 2030, nghĩa là khi đó đàn bò sữa trong nước có thể đạt từ 1,3 - 1,5 triệu con và sản lượng sữa tươi nguyên liệu có thể đạt từ 4,3 - 5,0 triệu tấn"- ông Dương nhấn mạnh.

Để khuyến khích mô hình này, tập đoàn TH cũng đề xuất một hệ thống chính sách đồng bộ; có bộ chính sách về ưu đãi đầu tư như giảm thuế; trợ giá; ưu tiên đất đai và tín dụng; hình thành các mô hình liên kết… Những đề xuất này được xây dựng từ chính thực tiễn thành công của TH, từ đó mở ra một con đường khả thi để ngành sữa Việt Nam phát triển bền vững, minh bạch và hiệu quả, gia tăng sản lượng và nguồn cung sữa tươi nguyên liệu trong nước, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu, giảm sử dụng sữa bột pha lại.

Theo các chuyên gia, việc hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguyên liệu và sản phẩm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và mở rộng thị trường sẽ là những trụ cột quan trọng cho sự phát triển bền vững trong tương lai. Để làm được điều đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, người tiêu dùng và các tổ chức nghiên cứu, nhằm tạo ra một hệ sinh thái sữa minh bạch, hiệu quả và hội nhập quốc tế. Nếu tận dụng tốt các cơ hội và triển khai đúng hướng, ngành sữa Việt Nam hoàn toàn có thể khẳng định vai trò quan trọng không chỉ trong chiến lược phát triển nông nghiệp, mà còn trong việc nâng cao chất lượng sống của người dân và tăng sức cạnh tranh quốc gia.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục