Hoàn thiện cơ chế, hạ tầng thúc đẩy liên kết kinh tế nội vùng trong bối cảnh mới

16:29' - 11/12/2025
BNEWS Vùng kinh tế Đông Nam Bộ từ lâu đã được xem là đầu tàu tăng trưởng, là khu vực năng động bậc nhất của cả nước, đóng góp quan trọng vào GDP, xuất khẩu và thu ngân sách quốc gia.

Tuy nhiên, để vùng tiếp tục phát huy vai trò dẫn dắt trong bối cảnh mới, sự hợp nhất địa giới hành chính cũng như sự chuyển đổi mạnh mẽ về mô hình phát triển, cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì yêu cầu về hoàn thiện thể chế, chính sách, hạ tầng cho hoạt động liên kết nội vùng trở thành yêu cầu tất yếu và cấp bách.

Đây là vấn đề được các chuyên gia kinh tế, nhà khoa học đặt ra tại Hội thảo “Thực trạng và giải pháp phát triển liên kết nội vùng ở vùng kinh tế Đông Nam Bộ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế” do Trường Đại học Ngoại thương và Viện Khoa học xã hội vùng Nam bộ phối hợp tổ chức sáng 11/12 tại TP. Hồ Chí Minh.

Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Vũ Tuấn Hưng, Viện trưởng Viện Khoa học xã hội vùng Nam bộ, thực tiễn cho thấy, dù đã có nhiều nỗ lực, liên kết giữa các địa phương trong vùng Đông Nam bộ vẫn còn thiếu tính chặt chẽ, chưa khai thác hết tiềm năng về hạ tầng, chuỗi cung ứng, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực và các ngành kinh tế mũi nhọn. Khoảng trống này không chỉ hạn chế sự phát triển của từng địa phương mà còn ảnh hưởng tới sức cạnh tranh tổng thể của cả vùng Đông Nam bộ.

Đi vào phân tích cụ thể các mặt còn hạn chế trong liên kết nội vùng, Tiến sĩ Hoàng Văn Tú, Học viện Cán bộ TP. Hồ Chí Minh, cho biết: Thể chế liên kết kinh tế vùng Đông Nam Bộ hiện nay bao gồm chính sách phát triển vùng do Trung ương ban hành, quy hoạch vùng, Hội đồng điều phối vùng, cùng cơ chế chính sách chung của quốc gia. Tuy nhiên, các cơ chế phối hợp liên vùng vẫn ở mức ban đầu và chưa đủ mạnh để điều hòa hiệu quả giữa các địa phương thành phần sau khi sáp nhập. Việc sáp nhập hạ tầng hành chính đã tạo ra tiềm năng hợp lực lớn hơn, nhưng cũng đặt ra thách thức mới về thiết lập cơ chế quản lý, điều phối chung.

Mặt khác, hạn chế cốt lõi của liên kết kinh tế vùng Đông Nam Bộ xuất phát từ việc thể chế liên kết vùng chưa được hình thành đầy đủ và thống nhất. Dù đã có nhiều nghị quyết, chương trình và kế hoạch hành động, các quy định về liên kết bắt buộc vẫn còn chung chung, thiếu cơ chế vận hành thực thi rõ ràng. Khung pháp lý vẫn chưa có văn bản ở cấp luật hoặc nghị định chuyên biệt điều chỉnh quyền – nghĩa vụ – trách nhiệm giữa các tỉnh trong vùng, đặc biệt là các quy định về phân bổ ngân sách liên vùng, chia sẻ nguồn lực, phối hợp đầu tư và điều phối các dự án hạ tầng liên tỉnh.

“Bộ máy điều phối vùng mới ở dạng Hội đồng điều phối, chủ yếu dựa trên sự tự nguyện của các chủ thể thay vì quyền hạn đủ mạnh để hoạch định và cưỡng chế thực thi. Điều này khiến “luật chơi” liên kết vùng mờ nhạt, “người chơi” vẫn chủ yếu hoạt động theo logic “kinh tế tỉnh”, và “sân chơi” thiếu các công cụ tài chính đặc thù để thúc đẩy hợp tác bắt buộc. Hệ quả là sự phối hợp liên vùng rời rạc, dễ rơi vào tình trạng mạnh tỉnh nào tỉnh nấy làm, dẫn đến phân tán nguồn lực và khó huy động sức mạnh tổng hợp của toàn vùng”, Tiến sĩ Hoàng Văn Tú phân tích.

Thông qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới về phát triển liên kết kinh tế vùng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Thùy Vinh, Phó Trưởng khoa Sau đại học Trường Đại học Ngoại thương đã gợi mở một số giải pháp trọng tâm trong thúc đẩy liên kết kinh tế vùng Đông Nam bộ. Cụ thể, vùng cần xây dựng thể chế quản trị liên kết hiệu quả, với phân vai rõ ràng và một cơ quan điều phối vùng có thực quyền nhằm thống nhất quy hoạch, hạ tầng và phân bổ ngành, thay cho mô hình liên kết mang tính hình thức hiện nay. Hạ tầng và logistics phải được phát triển đồng bộ, ưu tiên hoàn thiện các tuyến vành đai, cao tốc, metro liên tỉnh; hình thành tiêu chuẩn di chuyển nội vùng 30–60 phút; xây dựng hệ thống logistics tích hợp, thông minh, kết nối chặt chẽ giữa Cái Mép – Long Thành – Bình Dương – Tây Ninh.

“Vùng cần phát triển hệ sinh thái doanh nghiệp – công nghiệp dựa trên chuỗi cung ứng, với doanh nghiệp đóng vai trò dẫn dắt, đồng thời đầu tư mạnh cho R&D, nhân lực chất lượng cao và mạng lưới hợp tác đại học – doanh nghiệp. Song song đó, cơ chế chính sách phải mang tính đột phá, áp dụng sandbox thể chế và chuyển sang thu hút đầu tư theo chất lượng, nhấn mạnh yêu cầu chuyển giao công nghệ, tiết kiệm năng lượng và gắn kết chuỗi cung ứng vùng”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Thùy Vinh nhấn mạnh.

Từ góc nhìn doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Nguyệt Dung, Giám đốc PV GAS LPG miền Nam, CTCP Kinh doanh LPG Việt Nam cho rằng, nhà nước cần hoàn thiện hạ tầng và chính sách để bảo đảm sự phát triển liên vùng hiệu quả và bền vững, trong đó ưu tiên đầu tư các kho cảng nước sâu, mở rộng sức chứa và hình thành hệ thống kho trung chuyển tại các vùng kinh tế trọng điểm nhằm giảm chi phí logistics và bảo đảm cân đối cung – cầu giữa các khu vực; thúc đẩy phát triển mạnh vận tải đa phương thức, đặc biệt tăng tỷ trọng đường thủy và đường sắt để giảm áp lực đường bộ, đồng thời tạo cơ chế khuyến khích chia sẻ hạ tầng kho bãi giữa các doanh nghiệp trong ngành.

Tại hội thảo, các chuyên gia kinh tế cho rằng, sau khi hợp nhất các đơn vị hành chính vùng Đông Nam Bộ cần điều chỉnh lại thể chế và cơ chế điều phối phát triển tương ứng với quy mô mới. Thực tế cho thấy, dù có vị thế kinh tế dẫn đầu cả nước, thể chế vùng hiện tại còn nhiều khoảng trống (luật lệ chung chưa rõ, hệ thống điều phối chưa mạnh, chính sách tài chính địa phương nặng về tính địa phương).

Để thúc đẩy liên kết nội vùng, cần hoàn thiện thể chế liên kết vùng bằng việc quy hoạch chiến lược phát triển chung, cơ chế tài chính chung, đầu tư hạ tầng trọng điểm, tăng cường hiệu lực của Hội đồng điều phối vùng. Đông Nam bộ nên được xác định là vùng thí điểm một số cơ chế mới (thí điểm tài chính – đầu tư đặc thù, khuyến khích hợp tác liên vùng), khi đó nguồn lực lớn trong nước và quốc tế sẽ được huy động, rào cản phát triển sẽ giảm bớt, giúp vùng Đông Nam Bộ phát triển bứt phá và đóng góp xứng đáng vào kinh tế quốc gia trong bối cảnh mới.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục