Một số quy định pháp luật về lao động giúp việc gia đình

07:14' - 30/07/2018
BNEWS Giúp việc gia đình là loại hình lao động ngày càng phổ biến và không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại.

Tuy nhiên, phần lớn người sử dụng lao động cũng như người giúp việc vẫn chưa biết và hiểu rõ những quy định của pháp luật đối với loại hình lao động này.

Gần 90% lao động giúp việc gia đình không ký kết hợp đồng lao động

Nghề giúp việc gia đình không chỉ làm tăng cơ hội việc làm, trả công đối với một bộ phận lao động mà còn giúp chăm sóc người già, trẻ em, người khuyết tật một cách chuyên nghiệp và có chất lượng hơn.

Ở tầm vĩ mô, nghề này còn tạo ra một kênh phân phối lại thu nhập trong nội bộ các quốc gia và giữa các quốc gia khi đưa lao động giúp việc gia đình từ nước này sang làm việc tại nước khác.

Ngày nay, giúp việc gia đình đã trở thành một loại hình lao động phổ biến. Trên thế giới, cứ 13 lao động làm công ăn lương thì có 1 người là lao động giúp việc gia đình. Đến nay, toàn thế giới có 67 triệu lao động giúp việc gia đình, trong đó hơn 80% là phụ nữ.

Tại Việt Nam, nhu cầu giúp việc gia đình đang ngày càng gia tăng và là nghề phổ biến đối với lao động nữ di cư.

Theo thống kê của Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Phát triển cộng đồng (GFCD), lao động giúp việc gia đình tại Việt Nam có tới trên 98% là phụ nữ, trong đó khoảng 75% là người di cư (từ địa phương khác tới) và có tới trên 96% lao động giúp việc chưa qua đào tạo. Lao động giúp việc cũng có trình độ học vấn khá thấp (77% lao động chỉ học từ tiểu học đến THCS).

Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc đa số người giúp việc gia đình chưa tiếp cận được với các thông tin pháp luật nên chưa hiểu hết về quyền lợi của mình. Kết quả là, có đến 97% lao động giúp việc không tham gia bảo hiểm xã hội; trên 91% không có lương hưu hoặc trợ cấp thường xuyên và chỉ có 19,5% có bảo hiểm y tế.

Các khảo sát liên quan đến nhóm lao động này cũng đã chỉ ra gần 90% lao động giúp việc gia đình đang làm việc mà không ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản với người sử dụng lao động, nên không có cơ sở để đòi quyền lợi.

Theo bà Ngô Thị Ngọc Anh, Giám đốc Giám đốc GFCD, định kiến giúp việc gia đình tại Việt Nam còn nặng nề, chưa xem đây là nghề. Bản thân người lao động giúp việc gia đình không muốn ký hợp đồng lao động do thiếu hiểu biết, thiếu thông tin.

Về phía chủ sử dụng lao động không muốn ký vì cho rằng các quy định hiện giờ chỉ tập trung lợi ích của người lao động và không muốn tăng chi phí cho bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế...

Do không hiểu luật, không ký hợp đồng lao động nên giúp việc gia đình có nguy cơ phải đối mặt với những rủi ro lớn trong quá trình làm việc như: bị phân biệt đối xử, bị nợ lương, bị đánh đập, bị cưỡng bức… hay các hình thức lạm dụng khác.

Điển hình là vụ bạo hành gần đây nhất khiến dư luận hết sức phẫn nộ là chị Y Nhiêu (23 tuổi, trú tại huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum) bị chủ nhà tra tấn dã man như: như dùng cây sắt, dùng bàn là đã hơ nóng và cây sắt có đinh… để đánh đập khiến chị bị thương nặng, phải nhập viện cấp cứu.

Hiện cơ quan chức năng đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam bị can 4 tháng để phục vụ công tác điều tra.

Có rất nhiều vụ bạo hành người giúp việc gây thương tích nặng nề đã xảy ra nhiều năm qua. Vì vậy, nếu người giúp việc hiểu luật và thỏa thuận, ký kết hợp đồng lao động ngay từ đầu thì các trường hợp đáng tiếc trên có lẽ đã không xảy ra.

Một số quy định pháp luật về lao động giúp việc gia đình

Việt Nam đã ban hành một số quy định pháp luật về lao động giúp việc gia đình, như: Bộ luật Lao động năm 2012, Mục 5 (từ Điều 179-Điều 183) có quy định rõ điều khoản về hợp đồng lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, an toàn vệ sinh lao động, kỷ luật lao động và trách nhiệm giải quyết các vấn đề lao động; Nghị định số 27/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động là người giúp việc gia đình; Thông tư số 19/2014/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội về hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 27/2014/NĐ-CP.

Tuy nhiên, trên thực tế phần lớn người sử dụng lao động cũng như người lao động chưa hiểu hết hoặc chưa nắm hết những quy định của pháp luật đối với lao động.

Dưới đây là một số quy định pháp luật về lao động giúp việc gia đình trong Bộ luật Lao động 2012

Điều 179. Lao động là người giúp việc gia đình

1. Lao động là người giúp việc gia đình là người lao động làm thường xuyên các công việc trong gia đình của một hoặc nhiều hộ gia đình. Các công việc trong gia đình bao gồm: công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại.

2. Người làm các công việc gia đình theo hình thức khoán việc thì không thuộc đối tượng áp dụng của bộ luật này.

Điều 180. Hợp đồng lao động đối với lao động là người giúp việc gia đình

1. Người sử dụng lao động phải ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản với người giúp việc gia đình.

2. Thời hạn của hợp đồng lao động đối với lao động là người giúp việc gia đình do hai bên thoả thuận. Một bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động bất kỳ khi nào nhưng phải báo trước 15 ngày.

3. Hai bên thỏa thuận, ghi rõ trong hợp đồng lao động về hình thức trả lương, kỳ hạn trả lương, thời giờ làm việc hằng ngày, chỗ ở.

Điều 181. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động

1. Thực hiện đầy đủ thỏa thuận đã giao kết trong hợp đồng lao động.

2. Trả cho người giúp việc gia đình khoản tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật để người lao động tự lo bảo hiểm.

3. Tôn trọng danh dự, nhân phẩm của người giúp việc gia đình.

4. Bố trí chỗ ăn, ở sạch sẽ, hợp vệ sinh cho người giúp việc gia đình, nếu có thoả thuận.

5. Tạo cơ hội cho người giúp việc gia đình được tham gia học văn hóa, học nghề.

6. Trả tiền tàu xe đi đường khi người giúp việc gia đình thôi việc về nơi cư trú, trừ trường hợp người giúp việc gia đình chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn.

Điều 182. Nghĩa vụ của lao động là người giúp việc gia đình

1. Thực hiện đầy đủ thỏa thuận mà hai bên đã ký kết trong hợp đồng lao động.

2. Phải bồi thường theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật nếu làm hỏng, mất tài sản của người sử dụng lao động.

3. Thông báo kịp thời với người sử dụng lao động về những khả năng, nguy cơ gây tai nạn, đe dọa an toàn, sức khỏe, tính mạng, tài sản của gia đình người sử dụng lao động và bản thân.

4. Tố cáo với cơ quan có thẩm quyền nếu người sử dụng lao động có hành vi ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động hoặc có những hành vi khác vi phạm pháp luật.

Điều 183. Những hành vi bị nghiêm cấm đối với người sử dụng lao động

1. Ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động, dùng vũ lực đối với lao động là người giúp việc gia đình.

2. Giao việc cho người giúp việc gia đình không theo hợp đồng lao động.

3. Giữ giấy tờ tùy thân của người lao động./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục