Tăng kết nối sản xuất thương mại, logistics biên giới Tây Nam​

17:39' - 16/09/2025
BNEWS Tăng cường kết nối sản xuất thương mại, logistics khu vực biên giới Tây Nam đang được xem là hướng đi chiến lược nhằm mở rộng thị trường và tạo sức bật mới cho doanh nghiệp.
Logistics vẫn tồn tại những “nút thắt” lớn khiến chi phí tăng cao, làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để khắc phục, Chính phủ khuyến khích mạnh mẽ đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, coi đây là chìa khóa giúp giảm chi phí và tối ưu chuỗi cung ứng. Trong các giải pháp, tăng cường kết nối sản xuất thương mại, logistics khu vực biên giới Tây Nam, nơi giàu tiềm năng giao thương quốc tế, được xem là hướng đi chiến lược nhằm mở rộng thị trường và tạo sức bật mới cho doanh nghiệp.

* Gỡ nút thắt chi phí

Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ ba của Campuchia (sau Trung Quốc và Hoa Kỳ), đồng thời giữ vị trí số một trong ASEAN. Ngược lại, Campuchia là đối tác thương mại lớn thứ tư của Việt Nam trong khối, với 215 dự án đầu tư trải rộng ở nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, viễn thông, ngân hàng, dịch vụ tài chính, chế biến thực phẩm, khai khoáng, hàng không và du lịch.

Hai nước đã ký kết nhiều hiệp định quan trọng như Hiệp định thúc đẩy thương mại song phương giai đoạn 2025–2026, Biên bản ghi nhớ về phát triển hạ tầng thương mại biên giới, kết nối đường bộ – đường thủy, hay liên kết du lịch “một hành trình, ba điểm đến” qua Campuchia – Lào – Việt Nam. Những cơ chế này không chỉ giúp lưu thông hàng hóa thuận lợi hơn mà còn mở rộng dư địa hợp tác cho doanh nghiệp, đặc biệt trong logistics xuyên biên giới.

 
Tại Tây Ninh, ngoài 4 cửa khẩu quốc tế (Mộc Bài, Xa Mát, Bình Hiệp và Tân Nam – đang được nâng cấp), Cảng Quốc tế Long An giữ vai trò trọng điểm. Với Tổ hợp Cảng biển – Công nghiệp – Dịch vụ Logistics – Đô thị của Đồng Tâm Group, cảng sở hữu vị trí chiến lược, kết nối Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Campuchia qua đường bộ lẫn đường thủy Mekong. Nhờ đó, cảng trở thành trung tâm trung chuyển hàng công nghiệp, nông sản, thủy sản từ các vùng nguyên liệu lớn, tạo lợi thế cạnh tranh và thúc đẩy logistics bền vững.

Theo bà Ngô Thị Thanh Vy, Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần Khai thác Cảng Quốc tế Long An, hạ tầng cảng hiện được đầu tư hiện đại, có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải đến 70.000 DWT, cùng hệ thống kho bãi, logistics đồng bộ. Cảng sẵn sàng phục vụ trung chuyển hàng hóa từ Campuchia – Việt Nam ra thị trường quốc tế, hướng tới mục tiêu trở thành trung tâm logistics hàng đầu khu vực. Tuy nhiên, hoạt động khai thác tuyến hàng quá cảnh từ Campuchia đến cảng hiện chưa được đưa vào danh mục tuyến đường thủy theo Hiệp định vận tải Việt Nam – Campuchia, gây trở ngại cho việc phát huy hết tiềm năng kết nối.

“Vì không có tên trong danh sách các cảng được phép làm hàng quá cảnh, doanh nghiệp khi nhập hàng về Cảng Quốc tế Long An buộc phải đưa toàn bộ vào kho ngoại quan rồi mới có thể xuất sang Campuchia. Đây là điểm nghẽn lớn, làm tăng chi phí và thủ tục, đồng thời hạn chế tiềm năng phát triển logistics giữa hai nước”, bà Vy nhấn mạnh.

Bà Nguyễn Kim Hậu, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Đặc sản Seaspimex Việt Nam, cũng cho rằng chi phí logistics là gánh nặng với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kỳ vọng Chính phủ sẽ có thêm chính sách hỗ trợ, đặc biệt liên quan đến chi phí nhiên liệu, nhập khẩu máy móc, thiết bị và phương tiện vận chuyển. “Nếu chi phí này được giảm bớt, sẽ giúp hạ giá thành logistics, mang lại mức giá hợp lý hơn cho doanh nghiệp sử dụng dịch vụ”, bà Hậu chia sẻ.

Trong khi đó, bà Trịnh Thị Xuân Diệu, Giám đốc điều hành Công ty Logsun Global Logistics, nhận định Campuchia không chỉ là điểm đến xuất khẩu mà còn là cầu nối quan trọng để Việt Nam tiến vào ASEAN. Logistics là chìa khóa giúp doanh nghiệp tận dụng cơ hội, vượt thách thức và nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông – lâm – thủy sản. Tuy nhiên, ngành này còn nhiều rào cản: hạ tầng giao thông thiếu đồng bộ, thiếu kho lạnh và bãi đỗ xe, dễ ùn tắc mùa cao điểm; thủ tục hành chính cần cải tiến mạnh mẽ hơn; cùng với đó, các chi phí “ẩn” như lưu bãi, chờ kiểm dịch, phí cầu đường tiếp tục đẩy giá thành logistics lên cao, làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

* Hướng tới mục tiêu 20 tỷ USD

Mục tiêu nâng kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – Campuchia lên 20 tỷ USD đang dần được hiện thực hóa nhờ sự đóng góp của nhiều ngành hàng; trong đó, rau quả nổi lên như một trụ cột quan trọng. Ông Nguyễn Văn Mười, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit), cho biết diện tích trồng cây ăn quả trong nước liên tục mở rộng, thị trường tiêu thụ đa dạng hơn, qua đó gia tăng đáng kể kim ngạch xuất khẩu và cải thiện thu nhập cho nông dân.

Riêng năm 2024, xuất khẩu rau quả Việt Nam sang Campuchia đạt gần 17 triệu USD, phản ánh tiềm năng tăng trưởng rất lớn trong hợp tác nông sản song phương.

Ông Oknha Leng Rithy, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Việt Nam – Campuchia, nhấn mạnh: “Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia láng giềng thân thiết, có chung đường biên giới dài và mối quan hệ hữu nghị truyền thống. Đây chính là nền tảng vững chắc để thúc đẩy hợp tác kinh tế – thương mại”.

Theo ông Oknha Leng Rithy, tiềm năng hợp tác song phương rất lớn nhờ vị trí địa lý thuận lợi trong ASEAN, thị trường tiêu dùng trẻ, sự tương đồng văn hóa và chính sách hỗ trợ từ cả hai Chính phủ. Để hiện thực hóa, Hiệp hội cho rằng cần xây dựng nền tảng kết nối số với cổng thông tin điện tử chung cho doanh nghiệp. Song song đó, thúc đẩy hợp tác đa ngành, đặc biệt ở các lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông sản, du lịch, công nghệ thông tin, xây dựng, đồng thời phát triển chuỗi cung ứng liên kết. Đồng thời, tăng cường vai trò cầu nối của Hiệp hội trong hỗ trợ pháp lý, vốn, xúc tiến thương mại và đào tạo.

Ông Rithy khẳng định Hiệp hội sẽ tiếp tục đồng hành, góp phần đưa kim ngạch thương mại hai chiều sớm đạt 20 tỷ USD. Song song đó, trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp được vận hành và các đơn vị hành chính được sắp xếp, các tỉnh giáp Campuchia đang có thêm động lực mới để phát triển.

Ông Nguyễn Anh Sơn, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, đây là thời điểm quan trọng để tái định hướng thương mại biên giới, phát huy tiềm năng hợp tác kinh tế song phương Việt Nam – Campuchia”. Thực tế, quan hệ thương mại hai nước liên tục tăng trưởng. Năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua cửa khẩu biên giới đất liền đạt 7,26 tỷ USD, tăng 18,2% so với năm trước. Riêng 7 tháng năm 2025, con số đạt 5,17 tỷ USD, tăng 16,9% so với cùng kỳ. Những kết quả này cho thấy dư địa hợp tác còn rất lớn, nhất là với các nhóm hàng chủ lực như dệt may, sắt thép, nguyên phụ liệu, cao su hay hạt điều.

Để đạt mục tiêu đề ra, ông Nguyễn Anh Sơn cho rằng cần tập trung phát triển thương mại theo cụm hành lang kinh tế biên giới. Cụ thể liên kết các địa phương thành vùng như cụm Tây Nguyên – Nam Trung Bộ (nông sản, gỗ, cao su), cụm Đông Nam Bộ (công nghiệp chế biến, kết nối cửa khẩu Mộc Bài – Xa Mát với Thành phố Hồ Chí Minh và cảng biển quốc tế), cụm Đồng bằng sông Cửu Long (trung tâm phân phối nông sản chất lượng cao qua sông Mekong).

Đồng thời, đa dạng hóa cơ cấu hàng hóa, nâng cao giá trị xuất khẩu, đẩy mạnh chế biến sâu cho nông sản, thủy sản, dệt may, linh kiện điện tử nhằm tăng giá trị gia tăng. Ngoài ra, cần thúc đẩy thương mại điện tử và chuyển đổi số biên giới; trong đó, số hóa quy trình, phát triển hạ tầng số, rút ngắn thủ tục và mở rộng kết nối cung – cầu xuyên biên giới. Đặc biệt, tăng cường quản lý biên giới và kiểm soát chất lượng hàng hóa. Hoàn thiện phối hợp giữa các bộ, ngành với địa phương, quản lý chặt từ vận chuyển, kho bãi đến trung chuyển, kết hợp chống gian lận thương mại, buôn lậu, hàng giả để bảo đảm minh bạch và bền vững.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục