VPE500: Tạo lực đẩy cho khu vực kinh tế tư nhân trở thành lực lượng chủ lực của nền kinh tế

17:33' - 06/11/2025
BNEWS Năm 2025 đánh dấu năm thứ ba liên tiếp bảng xếp hạng VPE500 được thực hiện trong khuôn khổ hợp tác giữa Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính và Viện Konrad-Adenauer-Stiftung...

Ngày 6/11, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính) phối hợp cùng Viện Konrad-Adenauer-Stiftung Việt Nam (KAS) tổ chức Hội thảo Đánh giá 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam (VPE500 - Báo cáo 2025). Báo cáo kỳ vọng sẽ cung cấp bức tranh toàn diện hơn về khu vực doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn, góp phần thiết thực vào việc thực hiện thành công Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, qua đó, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân trở thành một lực lượng chủ lực trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Năm 2025 đánh dấu năm thứ ba liên tiếp bảng xếp hạng VPE500 được thực hiện trong khuôn khổ hợp tác giữa Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính và Viện Konrad-Adenauer-Stiftung với sự đồng hành của nhiều chuyên gia, nhà khoa học và cộng đồng doanh nghiệp trong nước.

 

Phát biểu tại hội thảo, TS. Nguyễn Như Quỳnh, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính cho biết, kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vai trò quan trọng, trở thành một trong những động lực chủ yếu của nền kinh tế, đóng góp to lớn vào tăng trưởng, sáng tạo việc làm và bảo đảm an sinh xã hội. Quan điểm này gần đây đã được thể hiện rất rõ trong Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.

Thực tiễn cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân trong nước hiện nay đóng góp khoảng 50% GDP, 30% thu ngân sách, với hơn 940.000 doanh nghiệp và 5 triệu hộ kinh doanh, sử dụng khoảng 82% lực lượng lao động cả nước; trong đó, nhóm doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn, tiêu biểu là 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam giữ vai trò đặc biệt quan trọng.

TS. Trần Toàn Thắng, Trưởng ban, Ban Quốc tế và Chính sách hội nhập, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính cho biết, báo cáo không tập trung vào mục đích xếp hạng mà tập trung nhiền hơn vào phân tích kết quả hoạt động và liên kết, tác động của nhóm doanh nghiệp VPE500.

Theo TS. Trần Toàn Thắng, tại thời điểm cuối năm 2023, Việt Nam có trên 1 triệu doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó, có 940 ngàn doanh nghiệp có báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân trong nước chiếm 97% số doanh nghiệp, thu hút 57,78% số lao động, chiếm 50,67% vốn và tạo ra 52,56% doanh thu thuần của khu vực doanh nghiệp.

Mặc dù, chỉ có 500 doanh nghiệp (chiếm khoảng 0,05% tổng số), VPE500 đang đóng góp đáng kể vào khu vực doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng. VPE500 đóng góp 11,83% doanh thu, 17,41% nguồn vốn và 5,86% tổng lao động của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Đáng chú ý, tỷ lệ này có dấu hiệu gia tăng kể từ năm 2020.

Với riêng khu vực doanh nghiệp tư nhân, VPE500 đang chiếm tỷ lệ khá lớn; trong đó, về doanh thu, với một số ngành cụ thể, VPE500 đang chiếm tới 50% trong ngành ngân hàng, 47% với ngành bất động sản và trong chế biến chế tạo là khoảng 13%.

Cũng theo đánh giá của Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, các doanh nghiệp VPE500 có tác động lan toả khá tốt tới các ngành và lĩnh vực. Các doanh nghiệp VPE500 không chỉ trực tiếp tạo ra sản lượng lớn, mà còn kéo theo sự mở rộng sản xuất ở nhiều ngành khác.

Bà Trịnh Thị Hương, Phó Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tập thể, Bộ Tài chính cho biết, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Theo đó, vấn đề đổi mới tư duy luôn được đặt lên hàng đầu và quan trọng nhất. Vì vậy, thay đổi tư duy, đổi mới nhận thức là vô cùng quan trọng; đây cũng là nhóm giải pháp đầu tiên trong Nghị quyết 68.

Đối với nâng cao chất lượng thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, Nghị quyết 68 nêu một điểm đột phá nổi bật như bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu 4 quyền cốt lõi của khu vực tư nhân gồm: quyền sở hữu, quyền đối với tài sản, quyền tự do kinh doanh và quyền bình đẳng; đồng thời, Nghị quyết 68 yêu cầu cắt giảm tối thiểu 30% trong năm 2025 đối với thời gian, chi phí và điều kiện kinh doanh.

“Theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương, đến nay, các con số đã xấp xỉ 30%, tạo cơ sở để tiếp tục khơi thông thể chế, gỡ các điểm nghẽn, huy động và khai thông nguồn lực khu vực kinh tế tư nhân”, bà Trịnh Thị Hương cho hay.

Theo đánh giá của ông Nguyễn Bá Hùng, chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tại Việt Nam, khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam phát triển năng động dù đối mặt nhiều thách thức. Khu vực này đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP và tạo việc làm, song vẫn tồn tại những khó khăn mang tính nền tảng.

Tuy nhiên, theo ông Hùng, môi trường kinh doanh còn nhiều rào cản, thể hiện ở chi phí tuân thủ cao, tính minh bạch và khả năng dự đoán chính sách còn yếu, khiến doanh nghiệp không muốn lớn, chỉ duy trì quy mô “vừa đủ”. Từ đó, năng lực quản trị doanh nghiệp cũng khó cải thiện. Doanh nghiệp tư nhân vẫn phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống ngân hàng, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, chi phí vốn cao. Chỉ những doanh nghiệp hiệu quả, doanh thu lớn, có lợi suất cao hơn chi phí vốn mới đủ sức mở rộng và tồn tại lâu dài.

“Một rào cản khác nằm ở hiệu lực thực thi hợp đồng và liên kết chuỗi giá trị. Nhiều doanh nghiệp Việt chủ yếu tự làm, tự phát triển công ty con trong hệ sinh thái, thay vì hợp tác trong chuỗi. Nếu giải quyết khó khăn căn bản đó, khu vực tư nhân Việt Nam năng động hoàn toàn có thể phát triển đột phá", ông Hùng cho hay.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá, dịch chuyển chuỗi giá trị và chuyển đổi số, việc hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân vươn ra thị trường quốc tế trở thành trụ cột trong chính sách phát triển của nhiều quốc gia. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các công cụ chính sách thường được thiết kế xoay quanh ba nhóm lớn, đó là ưu đãi thuế; tín dụng và bảo lãnh tài chính; khung thể chế - chiến lược quốc gia.

Còn theo TS. Trần Toàn Thắng, thay vì dàn trải nguồn lực hỗ trợ cho tất cả doanh nghiệp nhỏ và vừa, chính sách cần chuyển trọng tâm sang thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh, có khả năng vươn ra toàn cầu; đồng thời, hướng tới hỗ trợ theo chuỗi và theo ngành công nghiệp, thay vì hỗ trợ cho từng doanh nghiệp riêng lẻ, qua đó, tạo nền tảng tăng trưởng bền vững cho toàn nền kinh tế.

Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, báo cáo VPE500 năm 2025 được công bố vào thời điểm rất phù hợp, không chỉ tiếp tục cung cấp tri thức khoa học về hiệu quả và đặc điểm hoạt động của các doanh nghiệp lớn tại Việt Nam, mà còn là cơ sở quan trọng để đánh giá triển vọng phát triển của khu vực này trong giai đoạn 2026-2030.

VPE500 năm 2025 không chỉ là công trình nghiên cứu định lượng quy mô lớn, mà còn là cơ sở khoa học quan trọng phục vụ hoạch định chính sách phát triển khu vực tư nhân. Thông qua các chỉ số doanh thu, tài sản, lợi nhuận và đóng góp xã hội, VPE500 góp phần nhận diện rõ hơn vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế quốc dân, đồng thời tạo động lực thúc đẩy đổi mới tư duy, hoàn thiện thể chế và khuyến khích tinh thần khởi nghiệp sáng tạo.

Báo cáo lần đầu tiên về VPE500 được công bố năm 2022. VPE500 dựa trên ba tiêu chí, đó là quy mô lao động, tổng tài sản và doanh thu gộp. Thứ hạng VPE500 là trung bình cộng thứ hạng theo lao động, tổng nguồn vốn và doanh thu thuần.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục