Xây dựng thương hiệu gạo: Phải sản xuất theo chuỗi
Chính phủ đã chính thức phê duyệt đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 với mục tiêu xây dựng thương hiệu quốc gia, thương hiệu vùng và thương hiệu của doanh nghiệp.
Đề án nhằm mục tiêu nâng cao giá trị cho sản phẩm gạo Việt Nam, tăng giá trị hàng hóa xuất khẩu. Đây là một nhiệm vụ hết sức cấp thiết, là cơ hội để doanh nghiệp xây dựng thương hiệu gạo cho mình trên cơ sở chuỗi giá trị từ khâu giống lúa, gieo trồng, sản xuất, tạo ra sản phẩm gạo thương hiệu cung cấp cho thị trường nội địa và xuất khẩu.
Đặc biệt, thực hiện đề án tăng sẽ góp phần giá trị xuất khẩu cho mặt hàng gạo, đưa mặt hàng gạo của Việt Nam xuất khẩu vào các thị trường khó tính như: châu Âu, Bắc Mỹ và Đông Bắc Á.
Tuy nhiên, mục tiêu nâng cao giá trị và thương hiệu gạo đang gặp nhiều thách thức cả khách quan và chủ quan.Trước hết, người tiêu dùng nội địa hiện hầu như chưa để ý tới các mối nguy về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sản phẩm gạo thông thường. Đó là các nguy cơ về nấm mốc, về dư lượng chất bảo vệ thực vật tồn dư trong gạo, sử dụng bao bì tái chế và đặc biệt là việc sử dụng các loại thuốc đánh trùng mọt không rõ nguồn gốc xuất xứ. Do vậy, người tiêu dùng trong nước thường lấy yếu tố giá để so sánh trước khi quyết định mua hàng.
Hiện trên thị trường nội địa, hệ thống phân phối gạo cho người tiêu dùng chủ yếu là do các hộ cá thể buôn bán sản phẩm gạo rời nên có chi phí sản xuất, bảo quản, đóng gói thấp.Trong khi đó đối với sản phẩm gạo thương hiệu, do phải sản xuất theo quy trình quản lý chất lượng nghiêm ngặt, đóng gói, bảo quản trên bao bì có chất lượng tốt và phân phối theo các kênh tiêu dùng nên phải chịu các chi phí lớn. Điều này đã đẩy giá gạo lên cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm gạo thương hiệu.
Bên cạnh đó, chính sách thuế đối với mặt hàng gạo có sự khác biệt. Đó là thuế áp dụng cho các hộ kinh doanh cá thể và thuế giá trị gia tăng 5% áp dụng cho các doanh nghiệp. Điều này đã làm cho sản phẩm gạo của doanh nghiệp phải cạnh tranh bất bình đẳng với sản phẩm cùng loại trên thị trường do bị tính giá thuế cao hơn.Trên thị trường xuất khẩu, các nước có nhu cầu tiêu dùng gạo chất lượng cao tại châu Âu, Bắc Mỹ hay Đông Bắc Á thường có chính sách ưu tiên nhập khẩu gạo của các nước nghèo như Campuchia, Mianma...
Do vậy mức thuế suất của các nước này thường rất thấp hoặc bằng không. Trong khi đó, thuế suất cho gạo của Việt Nam thường rất cao và điều này đã làm giảm tính cạnh tranh của gạo Việt Nam khi vào các thị trường này.
Hiện gạo xuất khẩu có hai nguồn nguyên liệu chính. Nguồn nguyên liệu đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu tốt nhất là từ những cánh đồng lớn, tuy nhiên số lượng này không nhiều. Nguồn còn lại chủ yếu thu mua trên thị trường.Do vậy thường gặp các vấn đề như dư lượng chất bảo vệ thực vật tồn dư trong sản phẩm gạo, chất lượng gạo không đồng đều do nông dân sử dụng nguồn giống bị lai tạp, đấu trộn trước khi bán và đặc biệt là công nghệ bảo quản sau thu hoạch kém. Với các loại gạo đặc sản, do diện tích canh tác nhỏ lẻ, việc không đủ nguyên liệu cho các đơn hàng lớn cũng là một khó khăn.
Để xây dựng thương hiệu cho sản phẩm gạo một cách bền vững cần có sự hợp tác giữa các bên liên quan để tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị: từ khâu giống, gieo trồng, sản xuất cho tới hệ thống phân phối. Từ đó mới tạo ra sản phẩm khác biệt phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu.
Thực tiễn cho thấy, việc xây dựng cánh đồng mẫu lớn được coi là giải pháp quan trọng. Hiện tại, Tổng công ty Lương thực miền Bắc (Vinafood 1) đã từng bước triển khai chương trình cánh đồng lớn trên cả nước như: Nam Định, Thái Bình, Điện Biên, Đồng tháp, An Giang, Long An...
Tại đây, Vinafood 1 đã phối hợp với các địa phương tổ chức quy hoạch vùng trồng. Cách thức hợp tác với nông dân của Tổng công ty là hợp tác thông qua cơ quan quản lý địa phương. Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các huyện giới thiệu các xã hoặc hợp tác xã có năng lực chỉ đạo, điều hành.
Họ có khả năng tổ chức thực hiện mô hình đảm bảo thành công, tổ chức thực hiện các dịch vụ cho nông dân theo hướng sản xuất đồng loạt và cơ giới hóa căn cứ vào hợp đồng liên kết với Tổng công ty. Đồng thời chính quyền địa phương làm trọng tài điều phối các hoạt động, giám sát việc ký kết, thực hiện hợp đồng giữa các bên.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai cánh đồng lớn vẫn còn nhiều hạn chế bởi ý thức, trách nhiệm của nông dân khi việc thực hiện các cam kết trong hợp đồng chưa cao. Dẫn đến một số hợp đồng liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm bị phá vỡ, gây mất lòng tin giữa các bên. Hay sự thiếu ý thức chấp hành quy trình canh tác, thu hoạch của một số hộ xã viên cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng thóc nguyên liệu và sản phẩm trước khi đưa ra thị trường.
Bên cạnh đó, như tại miền Bắc, do tập quán sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, một năm chỉ có 2 vụ chính nên rất khó khăn trong đầu tư xây dựng hệ thống sấy lúa tươi. Đầu tư xây dựng hệ thống sấy lúa tươi có chi phí đầu tư cao nhưng thời gian sử dùng hàng năm ngắn (chỉ khoảng 2 tháng/năm, còn lại để không) nên không hiệu quả. Điển hình như Nhà máy sấy tại Nam Định của Tổng công ty đang hoạt động trong tình trạng này./.Ông Nguyễn Xuân Hồng, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và phát triển gạo Việt Nam (Tổng công ty Lương thực miền Bắc)
Tin cùng chuyên mục
-
Kinh tế Việt Nam
Thứ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Minh Hà: Hoàn thành đồng bộ và vượt tiến độ nhiều công trình trọng điểm
10:54'
Ngành xây dựng xác định quyết tâm hoàn thành đồng bộ và đúng hạn hoặc hơn nữa là vượt tiến độ các dự án vì đó là danh dự, trách nhiệm của ngành trước Đảng, Nhà nước và nhân dân.
-
Kinh tế Việt Nam
Bình Thuận đưa vào hoạt động hai công trình giao thông trọng điểm
10:38'
Sáng 19/4, UBND tỉnh Bình Thuận tổ chức khánh thành đưa vào hoạt động 2 tuyến đường giao thông trọng điểm của tỉnh Bình Thuận.
-
Kinh tế Việt Nam
Nhìn lại hành trình hơn 2 năm xây dựng Nhà ga T3 - sân bay Tân Sơn Nhất
10:23'
Sau hơn hai năm kể từ ngày Thủ tướng phát lệnh khởi công, dự án Nhà ga hành khách T3 - Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất (TP. Hồ Chí Minh) có vốn đầu tư lên tới 11.000 tỉ đồng, đã đi vào hoạt động.
-
Kinh tế Việt Nam
Bắc Giang, Bắc Ninh hợp nhất thành “siêu tỉnh công nghiệp”
10:13'
Khi hợp nhất, tỉnh Bắc Ninh (mới) sẽ có vai trò, vị thế rất lớn, trở thành một “siêu tỉnh công nghiệp” do hợp nhất hai “thủ phủ công nghiệp” của miền Bắc trước đây.
-
Kinh tế Việt Nam
Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Lễ công bố triển khai thí điểm nhận diện sinh trắc học tại Cảng hàng không Tân Sơn Nhất
10:07'
Sáng 19/4, Thủ tướng Phạm Minh Chính dự lễ khởi công, khánh thành các công trình, dự án trọng điểm quốc gia và các công trình lớn nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
-
Kinh tế Việt Nam
Bình Dương khát vọng vươn tầm - Bài cuối: Định hình tương lai
09:17'
Chiến lược phát triển đến năm 2045 của Bình Dương là "Từ công xưởng sản xuất đến vùng đổi mới sáng tạo - đô thị thông minh - phát triển vì con người".
-
Kinh tế Việt Nam
Bình Dương khát vọng vươn tầm - Bài 1: Thủ phủ công nghiệp thế hệ mới
09:17'
Trên chặng đường bứt phá và hướng tới tương lai bền vững của Bình Dương đã quy tụ khát vọng, công nghệ, khai thác động lực đầu tư, hạ tầng kết nối và cú hích từ những dự án tỷ USD.
-
Kinh tế Việt Nam
Trung tâm Thương mại 5.400 tỷ đồng ở Cần Thơ sẽ khởi công ngày 26/4
20:13' - 18/04/2025
Dự án Trung tâm Thương mại Aeon Mall Cần Thơ với tổng mức đầu tư 5.400 tỷ đồng sẽ chính thức khởi công vào ngày 26/4/2025, chào mừng kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
-
Kinh tế Việt Nam
Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam
20:12' - 18/04/2025
Chiều 18/4, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Ito Naoki nhằm trao đổi về một số nội dung tăng cường hợp tác giữa hai nước.