Ấn Độ tìm cách giải quyết cuộc khủng hoảng tài khóa

06:30' - 13/05/2021
BNEWS Theo tạp chí Eurasia Review, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (RBI, Ngân hàng trung ương) Shaktikanta Das đã công bố các biện pháp hỗ trợ thanh khoản cho nền kinh tế Ấn Độ.

Trong đó đáng chú ý nhất là thông báo về việc mua chứng khoán chính phủ (G-SECS) lần thứ hai với giá 350 tỷ rupee (4,74 tỷ USD), so với 250 tỷ rupee (3,39 tỷ USD) được mua tại phiên đấu giá đầu tiên - trong khuôn khổ Chương trình Mua lại Chứng khoán Chính phủ (G-SAP) - sẽ được tiến hành vào ngày 20/5/2021. 

Điều này đã có tác động ngay lập tức đến thị trường trái phiếu. Trái phiếu chính phủ tăng điểm; giá trái phiếu tăng lên 98,96 rupee và lợi suất trên trái phiếu kỳ hạn 10 năm giảm hai điểm cơ bản xuống 6%.

* Tài trợ trái phiếu            

Theo chương trình G-SAP, RBI in tiền và mua chứng khoán chính phủ để giảm sự biến động trên thị trường trái phiếu. Trong quý đầu tiên của năm tài khóa 2021-22 (kết thúc vào cuối tháng 3/2022), RBI cam kết mua chứng khoán chính phủ trị giá 1.000 tỷ rupee.  

Với tư cách là cơ quan quản lý nợ cho chính phủ trung ương, RBI quản lý chương trình vay của chính phủ. Sau khi vay 12.800 tỷ rupee trong giai đoạn 2020-21, Chính phủ Ấn Độ dự kiến sẽ vay thêm 12.050 tỷ rupee vào năm 2021-22.

Do đại dịch COVID-19 và nguồn thu thuế chậm lại trong những năm qua, Chính phủ Ấn Độ đã phải đi vay nhiều hơn để trang trải chi tiêu và bù đắp thâm hụt tài khóa. Vấn đề của việc vay nặng lãi này là hệ thống tài chính chỉ có thể cho vay tiền với một giới hạn nhất định.

Khi nhu cầu tiền tệ trên thị trường tăng lên, các nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu bắt đầu yêu cầu một tỷ suất sinh lời cao hơn (thường được gọi là lợi tức đến ngày đáo hạn - YTM) đối với khoản cho vay của họ.

Khi lợi nhuận từ các chứng khoán chính phủ hiện có tăng lên, RBI phải đưa ra mức lãi suất cao hơn đối với các chứng khoán tài chính mới mà ngân hàng này dự định phát hành thay mặt chính phủ để tài trợ cho thâm hụt tài chính.             

Chính sách này đẩy hối phiếu có lãi của chính phủ lên cao, điều mà chính phủ đang cố gắng giảm thiểu vì việc trả nợ hiện đang chiếm một phần lớn chi tiêu công. Do đó, thông qua chương trình G-SAP, RBI sẽ in tiền và mua trái phiếu chính phủ để bơm thêm tiền vào hệ thống tài chính và trong quá trình này nhằm đảm bảo rằng lợi suất trên chứng khoán chính phủ sẽ giảm xuống.  

Mặc dù thông báo mua trái phiếu chính phủ của RBI đã làm giảm lợi suất, nhưng tác động này có thể chỉ là thoáng qua. Lợi tức trái phiếu doanh nghiệp phản ánh triển vọng lãi suất và rủi ro tiềm ẩn của tổ chức phát hành.

Đường cong lợi suất này có thể đi lên nhờ hiệu ứng của hai đường cong khác; đó là tỷ lệ lây nhiễm dịch COVID-19 và tỷ lệ lạm phát. Thứ nhất, sự bùng phát trở lại của đại dịch COVID-19 đã dẫn đến hàng loạt các đợt đóng cửa và điều này sẽ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp. Thứ hai, áp lực lạm phát gia tăng và điều này có nghĩa là khả năng tỷ lệ lợi tức trái phiếu giảm trở lại là thấp.

* Tài trợ tiền tệ            

Xem xét tình hình kinh tế hiện nay ở Ấn Độ, chính phủ nước này cần phải loại bỏ mọi trở ngại trong việc thực hiện một chính sách tài khóa mở rộng. Do đó, Ấn Độ cần phải tìm ra những giải pháp thay thế đối với vấn đề thâm hụt chi tiêu do tài trợ trái phiếu. Một trong những giải pháp là tài trợ tiền tệ.

Điều này liên quan đến việc in tiền thường xuyên của ngân hàng trung ương để tài trợ cho thâm hụt của chính phủ hoặc cung cấp nguồn vốn cho người dân. Đôi khi, vấn đề này cũng có thể liên quan đến việc yêu cầu các ngân hàng tư nhân mua và nắm giữ nợ của chính phủ hoặc cho chính phủ vay trực tiếp.            

Theo bài viết, nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh John Maynard Keynes cũng đã từng ủng hộ việc các chính phủ thúc đẩy nhu cầu thông qua in tiền trực tiếp. Ngay cả đối với các nhà kinh tế có tư tưởng ủng hộ tự do thị trường, có rất nhiều người chấp nhận rằng các cơ quan quản lý tiền tệ có hai giải pháp rõ ràng để giải quyết vấn đề tài trợ cho thâm hụt tài khóa: Đó là tài trợ trái phiếu và tài trợ tiền tệ thông qua việc ngân hàng trung ương hay ngân hàng tư nhân mua nợ của chính phủ (tiền tệ hóa).

Một số nhà kinh tế học đầu tiên của Trường phái Chicago bao gồm Irving Fisher, Milton Friedman và Henry Simons lập luận rằng tài trợ tiền tệ cho thâm hụt của chính phủ sẽ tạo ra sự ổn định hơn so với tài trợ trái phiếu.             

Tuy nhiên, hiện nay nhiều người cho rằng việc ngân hàng trung ương tài trợ cho thâm hụt của chính phủ sẽ làm tăng cơ sở tiền tệ, dẫn đến việc nguồn cung tiền có thể gây ra lạm phát và làm suy yếu vị thế độc lập cũng như uy tín của ngân hàng trung ương. Điều này chỉ đúng với nền kinh tế hoạt động hết công suất và toàn dụng.

Trong một nền kinh tế có nguồn lực nhàn rỗi, tài trợ tiền tệ sẽ không dẫn đến lạm phát. Thay vào đó, thâm hụt tài khóa mở rộng - được hỗ trợ bởi tiền của ngân hàng trung ương - sẽ giúp tạo ra nhu cầu bổ sung, từ đó thúc đẩy năng lực sản xuất.             

Bài viết cho rằng Chính phủ Ấn Độ cần rút lại Đạo luật Quản lý Ngân sách và Trách nhiệm Tài khóa (FRBMA) năm 2003 - ngoài việc cam kết giảm tỷ lệ thâm hụt tài khóa/GDP xuống 3% hoặc thấp hơn vào năm 2008 - khiến chính phủ bắt buộc phải tài trợ cho thâm hụt tài khóa bằng cách sử dụng các khoản vay công trên thị trường vốn thay vì từ RBI, như thông lệ trước đây. 

Nếu FRMBA bị loại bỏ, những khó khăn trong việc quản lý đại dịch ở các bang khác nhau sẽ giảm đáng kể do nguồn tiền được giải phóng để ngăn chặn đại dịch và cứu trợ. Lãi suất trên thị trường đấu giá trái phiếu nhà nước đã tăng đột biến trong thời gian gần đây, tạo áp lực lớn đối với các bang vốn đang gặp khó khăn về tài chính. 

Thay vì dựa vào con đường này, RBI nên mua trái phiếu nhà nước với tỷ giá chiết khấu hiện hành. Điều này đang được thực hiện theo nhiều cách khác nhau bởi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hàng trung ương Anh (BoE) cũng như một số ngân hàng trung ương ở các nước đang phát triển. Ấn Độ cũng cần phải đi theo con đường tương tự./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục