ASEAN cần làm gì để giảm phụ thuộc vào lương thực nhập khẩu?

05:30' - 12/09/2022
BNEWS Các yếu tố như đại dịch COVID-19, tình trạng biến đổi khí hậu và cuộc xung đột Nga-Ukraine đã làm trầm trọng thêm tình trạng mất an ninh lương thực toàn cầu.
ASEAN cần làm gì để giảm phụ thuộc vào lương thực nhập khẩu? Ảnh minh họa: THX/TTXVN
Theo trang tin Thai PBS World, cuộc khủng hoảng đã lộ ra sự phụ thuộc của nhiều quốc gia trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào lương thực và thức ăn chăn nuôi nhập khẩu, đồng thời cho thấy các nước trong khu vực đang thiếu một chiến lược phối hợp sản xuất lương thực.
Trong bối cảnh đó, ASEAN cần giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu để làm “hạ nhiệt” những tác động của biến động thị trường toàn cầu đối với tình hình an ninh lương thực khu vực.        

Trong khi lương thực chính của ASEAN là gạo, nhu cầu lúa mỳ, đậu tương và ngô đã tăng lên trong thập kỷ qua mà các nước trong khu vực sản xuất không thể đáp ứng được. Đậu tương và ngô đã trở nên đặc biệt quan trọng như một loại thức ăn chăn nuôi cần thiết để hỗ trợ nhu cầu chăn nuôi tăng trưởng theo cấp số nhân. Để đáp ứng nhu cầu này, ASEAN cần phải nhập khẩu từ bên ngoài khối.

Tình trạng mất an ninh lương thực đã làm nổi bật tính dễ bị tổn thương của ASEAN đối với sự gián đoạn trong nhập khẩu thực phẩm. Một số nước hiện đang ưu tiên sản xuất nội địa hóa và chuỗi cung ứng ngắn hơn, đáng tin cậy hơn. Ban Thư ký ASEAN ước tính rằng ASEAN đã nhập khẩu 61 tỷ USD hàng hóa nông nghiệp từ bên ngoài khối trong năm 2020.

Các quốc gia ASEAN nằm trong số những nước nhập khẩu lúa mỳ lớn nhất thế giới và nhập khẩu một lượng đáng kể đậu tương và ngô. Điều này phản ánh việc ASEAN sản xuất không đủ các loại thực phẩm chính của khu vực.

Trong khu vực, có sự khác biệt lớn về năng lực sản xuất gạo, lúa mỳ, đậu tương, ngô, dầu thực vật và chăn nuôi giữa các quốc gia thành viên. Năm 2020, ASEAN sản xuất được 46 triệu tấn ngô, 735.000 tấn đậu tương và 113.400 tấn lúa mỳ. Sản lượng ngô của ASEAN chỉ đáp ứng khoảng 75% nhu cầu của khu vực do sản lượng tương đối thấp so với các nước xuất khẩu ngô lớn ở Bắc Mỹ, Nam Mỹ và châu Âu.  

ASEAN sản xuất chưa đến 1/10 nhu cầu đậu tương của mình. Sản xuất đậu tương của ASEAN tập trung ở Indonesia, Myanmar, Việt Nam, Campuchia và Thái Lan. Từ năm 2018 đến 2019, các nước thành viên ASEAN đã nhập khẩu khoảng 7,5 triệu tấn đậu tương làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi.

ASEAN chiếm 15% nhập khẩu lúa mỳ toàn cầu vào năm 2021. Phần lớn lúa mỳ nhập khẩu là từ Ukraine, do đó, cuộc xung đột tại Ukraine đã làm gián đoạn hoạt động xuất khẩu lúa mỳ sang khu vực Đông Nam Á và khiến giá tăng đột biến.

Indonesia là nhà nhập khẩu lúa mỳ lớn nhất trong ASEAN. Năm 2021, Indonesia nhập khẩu lượng lúa mỳ trị giá 3,5 tỷ USD. Lúa mỳ nhập khẩu được sử dụng để sản xuất các loại lương thực chính của quốc gia “vạn đảo”, bao gồm mỳ, bánh mỳ và bánh nướng. Nước này hoàn toàn phụ thuộc vào nhập khẩu lúa mỳ để làm lương thực và thức ăn chăn nuôi.            

Gạo là lương thực chính duy nhất mà ASEAN sản xuất thặng dư. Năm 2020, ASEAN trồng 48 triệu hecta lúa, thu hoạch được 191 triệu tấn gạo. Sản xuất lúa gạo chiếm khoảng 66% tổng diện tích đất canh tác ở ASEAN. Tuy nhiên, nhiều nước ASEAN vẫn là nước nhập khẩu gạo ròng, trong đó Indonesia và Philippines nhập khẩu nhiều nhất.

Năm 2020, các quốc gia ASEAN nhập khẩu tới 76,5% lượng gạo từ các quốc gia thành viên ASEAN khác. Các nước ASEAN rõ ràng cần phải làm việc cùng nhau và phát triển một chiến lược phối hợp để giảm sự phụ thuộc của khu vực vào nhập khẩu lương thực. Việc tăng sản lượng gạo có thể cho phép khu vực này trở thành nhà xuất khẩu gạo ròng và củng cố vị thế của mình trong bối cảnh một cuộc khủng hoảng an ninh lương thực khác.

Tăng sản lượng lúa sẽ hỏi sự kết hợp của công nghệ thay đổi. Điều này bao gồm việc chuyển đổi sang trồng lúa cải tiến bằng công nghệ sinh học, tăng năng suất tại ruộng của các giống lúa ưa thích, cải thiện cơ sở hạ tầng, hỗ trợ đầu vào và cải thiện kỹ năng quản lý nông hộ nhỏ. Tuy nhiên, diện tích lớn do sản xuất lúa và nhu cầu tăng sản lượng lúa đã làm dấy lên lo ngại về tác động môi trường.

Đất trồng đậu tương và lúa mỳ vẫn còn tương đối khan hiếm trong ASEAN, khiến khoảng cách giữa sản xuất và nhập khẩu là rất lớn. Việc tăng diện tích và sản lượng cây trồng sẽ đòi hỏi một chiến lược phối hợp. Do đó, cần phải có sự đầu tư đáng kể vào nông học lúa mỳ và đậu tương nhiệt đới, bao gồm cả việc chọn giống và quản lý dịch hại cây trồng.

Các giống đậu tương và lúa mỳ mới cần phải được cung cấp nhanh chóng bằng cách thực hiện công nghệ nhân giống cải tiến và cải thiện việc quản lý dịch hại.     

Thai PBS World kết luận rằng một sáng kiến toàn ASEAN có nguồn lực tốt có thể tăng khả năng phục hồi nguồn cung lúa mỳ, đậu tương và ngô của khu vực. Điều này sẽ cho phép ASEAN tận dụng đa dạng sinh học và các loại cây bản địa chưa được sử dụng để giảm sự phụ thuộc vào các loại cây lương thực và thực phẩm nhập khẩu./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục