Đã cung cấp 16,6 triệu tấn than cho sản xuất điện

16:56' - 02/10/2024
BNEWS Năm 2024, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng công ty (TCT) Đông Bắc và EVN đã hợp tác có hiệu quả, đảm bảo đủ than cho sản xuất điện.

Tại Hội nghị quản lý chất lượng và cung cấp than cho sản xuất điện được Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tổ chức mới đây, Phó Tổng giám đốc EVN Ngô Sơn Hải nhận định, năm 2024, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng công ty (TCT) Đông Bắc và EVN đã hợp tác có hiệu quả, đảm bảo đủ than cho sản xuất điện. Chất lượng cấp than cho các nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) cũng đã được cải thiện so với các năm trước, góp phần vận hành ổn định các tổ máy nhiệt điện.

 

Thực tế, từ tháng 9/2023, EVN, TKV và TCT Đông Bắc đã ký kết Thỏa thuận Hợp tác cung cấp than dài hạn cho các NMNĐ của EVN sử dụng than anthracite. Theo đó các bên thống nhất TKV và TCT Đông Bắc sẽ chịu trách nhiệm chính trị cung cấp đủ than anthracite cho vận hành toàn bộ các NMNĐ của EVN từ năm 2024 và các năm tiếp theo trong suốt thời gian vận hành của các nhà máy.

Tổng giám đốc EVN Nguyễn Anh Tuấn yêu cầu các NMNĐ nâng cao hiệu quả công tác phối hợp với NSMO và đơn vị cung cấp than trong việc tính toán, cập nhật kế hoạch huy động điện và nhu cầu sử dụng than để thực hiện hiệu quả các giải pháp đảm bảo nguồn than cho vận hành của nhà máy.

Tổng giám đốc EVN cũng đề nghị TKV, TCT Đông Bắc tiếp tục phát huy nền tảng hợp tác, đẩy mạnh hoạt động của Ban chỉ đạo cung cấp than cho các nhà máy điện. Đồng thời đề nghị TKV, TCT Đông Bắc triển khai nội dung đã thống nhất tại Thỏa thuận hợp tác các bên đã ký kết về cải thiện chủng loại và chất lượng than giao nhận phù hợp với nhu cầu của các đơn vị phát điện. Mặt khác, đề nghị TKV, TCT Đông Bắc tiếp tục đẩy mạnh tìm kiếm các nguồn than có chất bốc thấp, đảm bảo các chỉ tiêu kỹ thuật theo dõi bổ sung về tiệm cận theo thiết kế của các NMNĐ, góp phần đảm bảo vận hành ổn định và ngăn ngừa sự cố tổ máy.

Tại hội nghị, đại diện TKV, TCT Đông Bắc đều thể hiện sự nhất trí, đồng thuận trong việc không ngừng hợp tác chặt chẽ giữa các bên, thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Chính phủ để đảm bảo an ninh năng lượng đất nước.

Ban Kỹ thuật Sản xuất EVN cho biết, hiện nay, EVN và các tổng công ty phát điện (GENCO) sở hữu 11 công ty/nhà máy nhiệt điện than với tổng công suất đặt là 12.678 MW, chiếm khoảng 15% tổng công suất đặt toàn hệ thống và xấp xỉ 43% tổng công suất trong nội bộ EVN. Trung bình hàng năm, các NMNĐ trực thuộc EVN và các GENCO tiêu thụ khoảng 40 triệu tấn than; trong đó 28 triệu tấn là than anthracite sản xuất trong nước, 12 triệu tấn là than bitum/sub-bitum nhập khẩu.

Tính đến hết tháng 8/2024, tổng khối lượng than TKV và TCT Đông Bắc cấp cho các NMNĐ của EVN là 16,6 triệu tấn, đảm bảo nhu cầu huy động sản xuất điện và tồn kho thực tế của các NMNĐ. Đối với các NMNĐ sử dụng than bitum/ sub-bitum nhập khẩu (NMNĐ Vĩnh Tân 4, NMNĐ Duyên Hải 3 và 3 mở rộng), tổng khối lượng than sử dụng là 5,58 triệu tấn, đáp ứng yêu cầu phát điện theo huy động của hệ thống.

Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và thị trường điện Quốc gia (NSMO, thuộc Bộ Công Thương) tính toán kế hoạch vận hành năm 2025 theo 4 phương án. Theo đó nhu cầu than của các phương án dao động trong khoảng 27,31 đến 28,53 triệu tấn. Khối lượng than này nằm trong phạm vi Thỏa thuận hợp tác mà EVN, TKV, TCT Đông Bắc đã ký kết, sẽ đảm bảo đủ than cho sản xuất điện.

Với các NMNĐ sử dụng than nhập khẩu, nhu cầu than khoảng 11,13 triệu tấn trong năm 2025. Các đơn vị sẽ cân đối khối lượng còn lại theo hợp đồng, lập kế hoạch mua sắm đảm bảo đủ nhiên liệu than theo nhu cầu hệ thống.

Xác định nhiên liệu than là yếu tố quan trọng trong huy động, sản xuất nhiệt điện, EVN đã chỉ đạo các NMNĐ thường xuyên phối hợp, làm việc với các đơn vị cấp than để thu xếp đầy đủ nhiên liệu than ổn định, liên tục theo yêu cầu huy động của hệ thống điện. Đặc biệt, các NMNĐ cần tính toán chính xác nhu cầu, khối lượng than để chuẩn bị đầy đủ, kịp thời cho sản xuất điện theo cơ chế thị trường, đảm bảo trong mọi tình huống không được để đứt gãy nguồn cung về than cho sản xuất điện của nhà máy. Đồng thời duy trì sẵn sàng, dự trữ đầy đủ nhiên liệu than, đảm bảo hiệu quả hoạt động sản xuất của nhà máy.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục