Đảm bảo nguồn điện cho tăng trưởng kinh tế

08:58' - 16/12/2024
BNEWS Năm 2025 với mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 8-9%; từ năm 2026 trở đi, phấn đấu tăng trưởng cao hơn thì nhu cầu sử dụng điện của nền kinh tế rất lớn, nên việc cung cấp điện cần tăng từ 11% trở lên.

Để đáp ứng yêu cầu này, việc đảm bảo nguồn cung năng lượng trong mọi tình huống, không được để đứt gẫy nguồn cung, kể cả đứt gãy cục bộ là hết sức quan trọng.

Tiềm ẩn nguy cơ thiếu nguồn cung

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, tại Quy hoạch phát triển Điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII), một trong những mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất được nhấn mạnh là đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội theo từng thời kỳ, bảo đảm điện đi trước một bước.

Quy hoạch điện VIII nêu rõ: “Điện là ngành hạ tầng quan trọng, phát triển điện lực phải đi trước một bước tạo nền tảng thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, nâng cao đời sống nhân dân và bảo đảm quốc phòng, an ninh”. Theo đó, định hướng phát triển đồng bộ, đa dạng hóa các loại hình nguồn điện với cơ cấu hợp lý để bảo đảm an ninh năng lượng, nâng cao tính tự chủ của ngành điện, giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu; đồng thời đẩy mạnh phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch...

 

Tuy vậy, đại diện Bộ Công Thương cũng nhận định, việc cung ứng điện trong các năm 2025-2030 hết sức khó khăn, tiềm ẩn nguy cơ thiếu hụt công suất đỉnh vào thời điểm mùa khô. Cùng đó, các nguồn điện được phê duyệt không đáp ứng tiến độ theo kế hoạch, nguy cơ thiếu điện năng sử dụng trong tương lai. Nguyên nhân là do nhiều nguồn điện lớn (khí, than) khó đáp ứng tiến độ vận hành đến năm 2030 nên việc điều chỉnh quy hoạch là cần thiết để thay thế các dự án chậm tiến độ, đảm bảo khả thi, khả năng cung ứng điện.

Chẳng hạn, Quy hoạch điện VIII phê duyệt 23 dự án điện khí với công suất 30.424 MW đến năm 2030, tuy nhiên mới có một nhà máy vào vận hành là nhiệt điện Ô Môn 1; một dự án đang xây dựng là nhà máy Nhơn Trạch 3 và 4 đạt tiến độ 92%, dự kiến vận hành vào tháng 5/2025. Các nhà máy điện khí khác thuộc chuỗi dự án điện khí Lô B, chuỗi dự án khí điện Cá Voi Xanh, Hiệp Phước 1, Cà Ná, Nghi Sơn hay các dự án khác vẫn đang thực hiện các thủ tục...

Theo Bộ Công Thương, ngoại trừ dự án Nhơn Trạch 3 và 4, các dự án còn lại khó hoàn thành trước năm 2030 nếu không có những giải pháp căn cơ, tháo gỡ nút thắt cho điện khí LNG. Thực tế này dẫn tới nguy cơ thiếu hụt công suất nguồn điện lớn giai đoạn 2026 - 2030, tiềm ẩn rủi ro mất an ninh cung ứng điện, đặc biệt là miền Bắc.

Với nguồn điện than, đến năm 2030 sẽ đưa vào vận hành 3.380 MW và sau đó sẽ không phát triển theo cam kết. Tuy nhiên, 5 dự án nhiệt điện than chậm tiến độ, gặp khó trong thay đổi cổ đông, thu xếp vốn, gồm Công Thanh (công suất 600 MW), Nam Định I (1.200 MW), Quảng Trị (1.320 MW), Vĩnh Tân III (1.980 MW) và Sông Hậu II (2.120 MW).

Nhiệt điện than cũng gặp nhiều khó khăn do không nhận được đồng thuận của các địa phương, tổ chức tín dụng do những yêu cầu ngày càng khắt khe về điều kiện môi trường và thu xếp vốn. Với nguồn thủy điện, theo quy hoạch, tổng công suất đến năm 2030 là 29.346 MW, nhưng không thuận lợi vì dung lượng không còn nhiều, có thể gặp rủi ro khi phát triển.

Ngoài ra, với năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió cũng khó đạt được quy mô công suất theo quy hoạch đề ra, bao gồm cả điện gió trên bờ và gần bờ là 21.880 MW và điện gió ngoài khơi là 6.000 MW. Các nguồn điện mặt trời cũng đang được rà soát, tổng hợp, đánh giá phù hợp thực tiễn...

Quyết tâm đảm bảo hạ tầng điện cho phát triển

Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), từ đầu năm 2024 đến nay, EVN và các đơn vị đã khởi công hơn 80 công trình và hoàn thành đóng điện, đưa vào vận hành hơn 100 công trình lưới điện từ 110 kV đến 500; trong đó điểm nhấn nổi bật nhất là Dự án đường dây 500 kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối.

Đây là dự án trọng điểm, cấp bách, có ý nghĩa rất quan trọng để nâng cao sự ổn định vận hành hệ thống điện tăng cường cung cấp điện cho miền Bắc năm 2024 và các năm tiếp theo, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Theo Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Điện lực Việt Nam Đặng Hoàng An, dưới sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự quan tâm, ủng hộ của các Bộ, ngành, địa phương và người dân, EVN/EVNNPT đã quyết tâm, nỗ lực hoàn thành đóng điện các Dự án đường dây 500kV mạch 3 sau hơn 6 tháng thi công, thay vì 3 - 4 năm như thông thường.

Việc hoàn thành dự án với khối lượng công việc khổng lồ, liên quan nhiều bộ, ngành, địa phương và nhiều hộ dân, trong khoảng thời gian ngắn lịch sử để lại nhiều bài học quý cho không chỉ trong ngành điện lực mà cho các công trình, dự án lớn của đất nước trong thời gian tới, nhất là trong thực hiện thủ tục đầu tư; chuyển đổi mục đích sử dụng đất, rừng; giải phóng mặt bằng; mua sắm vật tư, thiết bị; huy động phương tiện, lực lượng, tổ chức thi công…

Trong đó, thời gian lập và trình duyệt chủ trương đầu tư/điều chỉnh chủ trương đầu tư chỉ gần 5 tháng. Đây là thời gian ngắn kỷ lục so với các dự án có quy mô tương tự và thời gian đã rút ngắn được từ 1,5- 2 năm. Dự án trải dài trên 9 tỉnh, có diện tích bồi thường giải phóng mặt bằng khoảng 183 ha, với 5.248 hộ dân và 96 tổ chức bị ảnh hưởng, đạt tiến độ kỷ lục, góp phần vào sự thành công của các Dự án.

Ông Nguyễn Thái Sơn - Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam khẳng định: Việc đóng điện tuyến đường dây 500kV mạch 3 cùng với khối lượng công việc khổng lồ là một kỳ tích của ngành điện. Lịch sử xây lắp đường dây 500kV của ngành điện đã sang trang mới nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, các địa phương có đường dây đi qua.

Theo các chuyên gia và doanh nghiệp, với nhu cầu điện tăng khoảng 12-13%, cần phải tăng thêm từ khoảng 2.200 - 2.500 MW công suất. Đây là điều không dễ dàng trong bối cảnh nhiều dự án nguồn điện còn chậm tiến độ. Tuy vậy, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho rằng đây không phải là vấn đề lớn và yêu cầu dứt khoát không được để thiếu điện cho năm 2025 với các giải pháp cụ thể.

Để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng, ngành điện phải có các dự án, công trình mang tính xoay chuyển tình thế, chuyển đổi trạng thái và không để thiếu điện. Thủ tướng yêu cầu, đảm bảo đủ nhiên liệu (than, khí) cho sản xuất điện theo nhu cầu hệ thống; trong đó đẩy mạnh khai thác than nội địa với kế hoạch dài hạn, đồng thời nghiên cứu việc nhập khẩu than từ Lào, giảm nhập khẩu từ các nguồn khác.

Thủ tướng cũng chỉ đạo các biện pháp nhập khẩu điện từ Lào và Trung Quốc, các đường dây đưa điện từ Lào và Trung Quốc về phải đẩy nhanh tiến độ hoàn thành; trong đó đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên phải hoàn thành trong thời hạn 6 tháng, đường dây 220kV Nậm Sum - Nông Cống phải hoàn thành trong năm 2024...

Bài cuối: Chiến lược phát triển giao thông hiện đại ở Trung Quốc

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục