Doanh nghiệp linh hoạt tìm hướng đi mới

09:23' - 31/10/2020
BNEWS Để thích ứng với đại dịch, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động, linh hoạt tìm hướng đi mới, thực hiện nhiều giải pháp nhằm duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh trong giai đoạn khó khăn.

Đại dịch COVID-19 đưa đến những thay đổi cơ bản về bối cảnh kinh tế - xã hội, chính trị trên thế giới nói chung và mỗi nước nói riêng.

Để thích ứng với đại dịch, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động, linh hoạt tìm hướng đi mới, thực hiện nhiều giải pháp nhằm duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh trong giai đoạn khó khăn.

Để hiểu rõ hơn về những khó khăn cũng như những giải pháp mà doanh nghiệp cố gắng thích ứng hoạt động sản xuất trong điều kiện bình thường mới, Phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với chuyên gia kinh tế Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê xung quanh nội dung này.

Phóng viên: Đại dịch COVID-19 đến nay vẫn diễn ra ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, đồng thời đang làm thay đổi trật tự và hoạt động kinh tế thế giới. Xin ông cho biết, đại dịch đã ảnh hưởng đến kinh tế và thương mại quốc tế như thế nào?

Chuyên gia Nguyễn Bích Lâm: Đại dịch COVID-19 đã dẫn đến hệ luỵ nặng nề cho kinh tế quốc tế và khu vực doanh nghiệp của Việt Nam. Kinh tế và thương mại quốc tế bị ảnh hưởng tiêu cực, trực tiếp trên một số phương diện.

Cụ thể, chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn cục bộ, lưu thông hàng hoá, dịch vụ và lao động toàn cầu không còn như trước khiến cho mọi hoạt động kinh tế, thương mại và đầu tư không thể thông suốt và hiệu quả.

Phương diện ảnh hưởng tiếp theo là nguy cơ sa vào trì trệ hoặc thậm chí cả suy thoái không chỉ như hiện nay mà còn có thể gia tăng.

Đại dịch COVID -19 đã làm suy giảm tiêu dùng của người dân và xã hội, ảnh hưởng nhiều nhất đến lĩnh vực du lịch và dịch vụ.

Tiếp đến, đại dịch hoành hành và diễn biến phức tạp như hiện nay đã làm giảm nhiệt huyết của các nhà đầu tư và các doanh nhân cũng ngần ngại đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, tác động mạnh tới tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư.

Cuối cùng là mối quan hệ và mức độ hợp tác về kinh tế, thương mại và đầu tư giữa các đối tác trên thế giới bị ngưng trệ khi Chính phủ và các doanh nghiệp quyết định ngừng hoạt động kinh tế ở những nơi bị dịch bệnh; đồng thời, chuyển dịch cơ sở sản xuất ra nơi khác.

Chẳng hạn Chính phủ Nhật Bản đã dành ngân sách 2 tỷ USD để hỗ trợ các cơ sở sản xuất của nước này chuyển từ Trung Quốc về Nhật, hay như ở Mỹ đã có ý kiến cho rằng đại dịch hiện tại sẽ khiến các doanh nghiệp Mỹ rút khỏi Trung Quốc trở về Mỹ, tạo thêm việc làm ở Mỹ.

Trong thời gian tới sẽ có sự hỗn loạn nhất định trong các mối quan hệ này, ảnh hưởng rất tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế và thương mại quốc tế.

Phóng viên: Xin ông cho biết những tác động tiêu cực của đại dịch  COVID-19 đến khu vực doanh nghiệp Việt Nam như thế nào?

Chuyên gia Nguyễn Bích Lâm: Trước khi xảy ra đại dịch COVID-19, khu vực doanh nghiệp Việt Nam đã bộc lộ những nét non yếu như: số lượng doanh nghiệp khá nhiều nhưng cơ bản là doanh nhỏ và vừa, cơ cấu giữa các khu vực kinh tế bất hợp lý.

Chỉ có 44,1% số doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi và có tới 48,4% số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ; lợi nhuận trước thuế của khu vực doanh nghiệp tuy có tăng 2,1% nhưng thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng vốn (18%) và tốc độ tăng doanh thu (14,4%).

Khi xảy ra đại dịch, chúng ta đã đánh giá tác động tiêu cực đến khu vực doanh nghiệp. Theo đó, đến thời điểm trung tuần tháng 9/2020 có tới 83,7% doanh nghiệp đang chịu tác động tiêu cực do ảnh hưởng của đại dịch.

Tuy vậy, cũng có 3,3% số doanh nghiệp nhận được ảnh hưởng tích cực từ đại dịch. Các doanh nghiệp này hoạt động trong những ngành như: bảo hiểm, y tế, bưu chính và chuyển phát....

Doanh thu của khu vực doanh nghiệp giảm, lao động bình quân 9 tháng năm 2020 của khu vực doanh nghiệp giảm 5,9% so với cùng kỳ năm trước.

Do tác động của đại dịch, nhiều doanh nghiệp đã phải áp dụng các biện pháp tạm thời như: cắt giảm lao động; cho lao động nghỉ việc không lương; giãn việc, nghỉ luân phiên; giảm lương của người lao động.

Cùng với đó, do hoạt động sản xuất của nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nguyên, vật liệu, máy móc thiết bị nhập khẩu.

Đại dịch gây ra sự đứt gãy chuỗi sản xuất và thương mại toàn cầu, dẫn đến thiếu hụt nguyên, vật liệu đầu vào; đồng thời, nhu cầu trong nước và quốc tế cũng suy giảm.

Cộng đồng doanh nghiệp cho biết hiện có khoảng 1/3 số doanh nghiệp đang thiếu hụt nguyên, vật liệu đầu vào.

Tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó khăn do thị trường xuất khẩu thu hẹp ở mức khá cao. Các doanh nghiệp xuất khẩu có quy mô càng lớn có tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó khăn do thị trường xuất khẩu thu hẹp càng cao.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thu hẹp thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp bao gồm: sụt giảm đơn hàng xuất khẩu, khó khăn trong lưu thông hàng hóa, chi phí vận chuyển lưu kho tăng…

Không những thế, doanh nghiệp công nghiệp đóng góp tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động cũng đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong việc xuất khẩu hàng hóa.

Các ngành dệt may, da giày, điện tử, ô tô và xe máy đều chứng kiến một giai đoạn khó khăn khi tỷ lệ doanh nghiệp bị sụt giảm đơn hàng xuất khẩu đều ở mức rất cao.

Phóng viên: Trước thực trạng “sức khoẻ” của khu vực doanh nghiệp và những hệ luỵ của đại dịch COVID -19 gây ra, ông có đề xuất những giải pháp gì nhằm giúp cho khu vực này phục hồi nhanh khi đại dịch suy giảm và chấm dứt?

Chuyên gia Nguyễn Bích Lâm: Trước mắt chúng ta cần thực hiện chính sách tài khoá nghịch chu kỳ, sử dụng ngân sách Nhà nước cấp tiền hoặc cho vay ưu đãi để các doanh nghiệp có đủ vốn vượt qua khó khăn. Các bộ, ngành rà soát lại các quy định, điều kiện, nới lỏng các yêu cầu về điều kiện thụ hưởng.

Bên cạnh đó, các bộ, ngành cần đổi mới triển khai cũng như xoá bỏ các quy định cồng kềnh để doanh nghiệp có thể thụ hưởng chương trình hỗ trợ bằng tiền từ ngân sách và gói hỗ trợ tín dụng, chấp nhận thà giúp nhầm còn hơn bỏ sót để hỗ trợ thực sự đến được những doanh nghiệp dễ bị tổn thương.

Khi nền kinh tế trong giai đoạn phục hồi tăng trưởng sau đại dịch, chính sách tài khóa cần chuyển hướng sang hỗ trợ có trọng tâm để bảo vệ các doanh nghiệp dễ bị tổn thương, hỗ trợ tạo động lực cơ cấu lại nền kinh tế.

Chính phủ cần hỗ trợ đầu tư trong nước hiệu quả hơn và hỗ trợ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có chọn lọc để tranh thủ được xu hướng chuyển dịch đầu tư trực tiếp nước ngoài do đại dịch tạo ra.

Bên cạnh đó, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành điều hành lãi suất linh hoạt, hạ lãi suất phù hợp với tình hình kinh tế vĩ mô; cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giảm lãi, phí; linh hoạt thực hiện chính sách ưu đãi tín dụng tại các ngân hàng thương mại, thúc đẩy tín dụng tiêu dùng; khẩn trương có giải pháp và triển khai thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận kênh thông tin về xuất, nhập khẩu nhằm tìm kiếm thị trường mới nhập khẩu nguyên, vật liệu đầu vào…

Cùng với đó, các bộ, ngành cần có giải pháp hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; thực hiện kích cầu tiêu dùng và đầu tư, với nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong nước gần 100 triệu dân; trong đó, tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ; hỗ trợ giá, bù đắp chi phí vận chuyển, lưu kho tăng do cộng đồng doanh nghiệp phải nhập khẩu nguyên vật liệu từ các thị trường mới.

Chính phủ cũng cần ban hành và triển khai một số chính sách đặc thù để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp thuộc một số ngành lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như du lịch, hàng không... ; đồng thời, nghiên cứu, ban hành và khẩn trương thực hiện chính sách kinh tế mới để “lôi kéo” doanh nghiệp tham gia hiệu quả vào quá trình cơ cấu lại nền kinh tế.

Tập trung đào tạo lực lượng lao động, đặc biệt đội ngũ lao động trẻ để lực lượng lao động đáp ứng được nhu cầu lao động trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng phù hợp với những thay đổi của thế giới do đại dịch COVID-19 tạo ra.

Trước những thay đổi của nền kinh tế, tôi mong muốn Đảng, Quốc hội và Chính phủ cần nghiên cứu thấu đáo với tinh thần trách nhiệm về những hệ luỵ do đại dịch COVID-19 gây ra; đồng thời, nghiên cứu những thay đổi có liên quan để định liệu, điều chỉnh chiến lược, sách lược, chính sách với các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội phù hợp bối cảnh và những thay đổi của hệ thống kinh tế thế giới cùng nền chính trị quốc tế.

Phóng viên: Xin cám ơn ông!

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục