Gia công hàng hóa giúp tiếp cận thị trường thế giới nhanh hơn

11:38' - 24/12/2018
BNEWS Hoạt động gia công hàng hóa với thương nhân nước ngoài đã góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp cho xã hội, tăng thu nhập cho người dân...

Với lợi thế là quốc gia có chính trị ổn định, nguồn nhân lực trẻ dồi dào, chi phí nhân công rẻ, Việt Nam là điểm tìm kiếm những đơn vị gia công của nhiều công ty đa quốc gia trên thế giới. Bên cạnh một số hạn chế còn tồn tại, hoạt động gia công hàng hóa với thương nhân nước ngoài đã góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp cho xã hội, tăng thu nhập cho người dân; đồng thời, giúp các doanh nghiệp trong nước thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ nước ngoài cũng như có điều kiện học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài, tiếp cận với thị trường thế giới. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Trung Tiến, Vụ trưởng Vụ Thống kê thương mại và dịch vụ, Tổng cục Thống kê.

Ông Nguyễn Trung Tiến, Vụ trưởng Vụ Thống kê thương mại và dịch vụ cho rằng, gia công hàng hóa giúp tiếp cận thị trường thế giới nhanh hơn. Ảnh: Thúy Hiền/BNEWS/TTXVN

Phóng viên: Xin ông cho biết hoạt động gia công hàng hóa với thương nhân nước ngoài của các doanh nghiệp trong nước thời gian qua? Việc gia công hàng hóa cho nước ngoài đã có những đóng góp như thế nào trong xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam?

Vụ trưởng Nguyễn Trung Tiến: Trước hết phải nói rằng, gia công hàng hóa quốc tế là hoạt động công nghiệp, theo đó bên nhận gia công nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm từ nước ngoài (bên đặt gia công) để tiến hành gia công, lắp ráp, chế biến ra thành phẩm; sau đó xuất khẩu sản phẩm đã hoàn thiện sau gia công trả lại cho bên đặt gia công.

Theo kết quả Tổng điều tra kinh tế 2017 mới được công bố gần đây của Tổng cục Thống kê, trong năm 2016 cả nước có 1.740 doanh nghiệp thực hiện hoạt động gia công hàng hóa với nước ngoài; trong đó có 1.687 doanh nghiệp nhận gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài. Giá trị nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho quá trình gia công, lắp ráp của các doanh nghiệp nhận gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài chiếm khoảng 12% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Tổng tiền phí gia công các doanh nghiệp nhận được trong năm 2016 là 8,6 tỷ USD.

Hoạt động nhận gia công hàng hóa cho nước ngoài đã có những đóng góp trong xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam. Đơn cử, trong năm 2016, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sau gia công của các doanh nghiệp thực hiện gia công hàng hóa cho đối tác nước ngoài chiếm hơn 18% (32,4 tỷ USD) tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đồng thời kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu từ các đối tác nước ngoài của các doanh nghiệp này chiếm 11,5% (20,2 tỷ USD) tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.

Phóng viên: Xin ông cho biết, hoạt động gia công hàng hóa tập trung chủ yếu ở khối doanh nghiệp nào và tập trung vào những lĩnh vực nào?

Vụ trưởng Nguyễn Trung Tiến: Hoạt động gia công hàng hóa tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp FDI với giá trị hàng hóa sau gia công đạt 25,6 tỷ USD, chiếm tới 78,9% tổng giá trị hàng hóa sau gia công và nhập khẩu nguyên liệu đạt 16,3 tỷ USD chiếm 80,5% tổng giá trị nguyên liệu nhập khẩu.

Trong khi đó, giá trị hàng hóa sau gia công của các doanh nghiệp ngoài nhà nước đạt 6,7 tỷ USD chiếm 20,6% và nhập khẩu nguyên liệu đạt 3,8 tỷ USD chiếm 19%; giá trị hàng hóa sau gia công của các doanh nghiệp nhà nước đạt giá trị khiêm tốn khoảng 150 triệu USD, chiếm tỷ trọng 0,5% và nhập khẩu nguyên liệu đạt 99,6 triệu USD, chiếm 0,5%.

Điều này cho thấy hoạt động gia công của các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn là làm thuê cho các đối tác nước ngoài, bởi các doanh nghiệp Việt Nam chỉ hưởng phần phí (tiền công) từ việc gia công lắp ráp, phần lớn nguyên liệu đầu vào do đối tác nước ngoài cung cấp.

Hai ngành gia công chính của nước ta là dệt may và giày dép, với doanh thu từ gia công 2 mặt hàng này chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động gia công, lắp ráp hàng hóa cho thương nhân nước ngoài của Việt Nam. Theo kết quả điều tra, trong năm 2016, hoạt động gia công hàng hóa với nguyên liệu đầu vào thuộc sở hữu nước ngoài mang về cho Việt Nam 8,6 tỷ USD tiền phí gia công; trong đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng cao nhất với 81,7% (7 tỷ USD), doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 17,4% (1,5 tỷ USD), doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng 0,9% (77 triệu USD).

Hoạt động gia công nhóm hàng dệt may đứng đầu với số ngoại tệ thu về 4,1 tỷ USD, chiếm 48% tổng phí gia công; tiếp đến là giày dép thu về 2,7 tỷ USD, chiếm 32% tổng phí gia công; lắp ráp điện tử máy tính thu về 63 triệu USD, chiếm 0,7%; lắp ráp điện thoại thu 268 triệu USD, chiếm 3,1%; gia công hàng hóa khác thu 1,4 tỷ USD, chiếm 16,2%.

Đặc biệt, đối với hoạt động gia công hàng dệt may, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hong Kong (Trung Quốc) là các đối tác chính với 3,5 tỷ USD phí gia công, chiếm 85% tổng phí gia công thu được từ ngành này; trong đó, các thương nhân đến từ Hàn Quốc đặt thuê gia công nhiều nhất với phí gia công Việt Nam thu được gần bằng các đối tác còn lại với gần 2 tỷ USD, chiếm tới 48,1% số tiền thu được từ gia công hàng dệt may; tiếp đến là Đài Loan, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hong Kong.

Phóng viên: Ông đánh giá hiệu quả như thế nào từ hoạt động gia công cho nước ngoài? Và những khó khăn hiện nay đối với các doanh nghiệp trong nước trong việc gia công?

Vụ trưởng Nguyễn Trung Tiến: Trước hết, phải nói rằng, hoạt động gia công cho nước ngoài đã đem lại hiệu quả về mặt xã hội, góp phần giải quyết việc làm cho trên 1 triệu lao động trong các doanh nghiệp của năm 2016, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập cho người dân. Bên cạnh đó, hoạt động gia công còn có vai trò rất lớn đối với các doanh nghiệp trong việc học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước phát triển, tăng cường khả năng quản lý doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, do nguyên liệu phục vụ cho gia công, lắp ráp phần lớn do phía nước ngoài cung cấp và sở hữu, do đó doanh nghiệp Việt Nam khó có thể chủ động trong quá trình sản xuất và chưa thực sự làm chủ được công nghệ vì vậy giá trị gia tăng đem lại từ hoạt động này không cao. Tỷ lệ thu từ hoạt động gia công so với giá trị hàng hóa sau gia công đạt giá trị thấp.

Theo kết quả điều tra cho thấy, trong năm 2016 tổng số tiền các doanh nghiệp Việt Nam thu được từ hoạt động gia công so với tổng giá trị hàng hóa sau gia công chỉ chiếm 26,4%; trong đó, tỷ lệ phí gia công trên tổng giá trị hàng hóa sau gia công của mặt hàng điện thoại đạt mức cao nhất với 32,4%, cao hơn tỷ lệ chung (26,4%), điện tử máy tính đạt 30,9%, giầy dép 27,3%, dệt may 24,5%, thấp hơn tỷ lệ chung, các mặt hàng khác là 30%, cao hơn tỷ lệ chung…

Bên cạnh đó, tỷ lệ giá trị nguyên liệu nhập khẩu về để gia công, lắp ráp trên tổng giá trị hàng hóa sau gia công ở mức khá cao với 62,3%, cho thấy tỷ lệ nội địa hóa của Việt Nam còn thấp. Tỷ lệ giá trị nguyên liệu đầu vào nhập khẩu so với giá trị hàng hóa sau gia công cao nhất ở nhóm hàng điện thoại với 78,9%, nhóm hàng điện tử máy tính 76,4%, nhóm dệt may 67,1%, nhóm giầy dép 47% và nhóm hàng hóa khác là 74,7%.

Mặt khác, hàng hóa sau gia công, lắp ráp bán tại Việt Nam chiếm tỷ lệ thấp. Theo kết quả điều tra, trong năm 2016 tổng giá trị hàng hóa sau gia công, lắp ráp với nguyên liệu đầu vào thuộc sở hữu nước ngoài đạt 32,4 tỷ USD; trong đó hàng hóa sau gia công, lắp ráp được bán tại Việt Nam là 1,3 tỷ USD, chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn với 3,9% tổng giá trị hàng hóa sau gia công, lắp ráp. Xét theo từng nhóm hàng gia công, tỷ lệ này của mặt hàng điện tử máy tính đạt giá trị cao nhất với 23,3%; tiếp đến là mặt hàng giày dép, dệt may và điện thoại với tỷ lệ tương ứng là 7,9%, 1% và 0,2%.

Phóng viên: Vậy thưa ông, để hoạt động gia công cho nước ngoài ngày một hiệu quả hơn, chúng ta cần có những giải pháp gì?

Vụ trưởng Nguyễn Trung Tiến: Theo tôi, để hoạt động này mang lại hiệu quả hơn, tạo ra giá trị tăng cao hơn cho nền kinh tế, trước hết, đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước cần tận dụng tốt cơ hội từ các hợp đồng gia công nhằm tiếp cận với trình độ quản trị, học hỏi kinh nghiệm và tiếp cận mẫu mã sản phẩm, công nghệ hiện đại từ các đối tác nước ngoài vì hầu hết các nước thuê gia công đều là các quốc gia phát triển, có kỹ năng quản lý, điều hành, quản trị tốt và trình độ công nghệ cao.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệpViệt Nam cần gắn kết với nhau tạo chuỗi giá trị cung ứng nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ cho quá trình gia công, lắp ráp, nhằm nâng cao tỷ lệ nội địa hóa. Ngoài ra, Chính phủ cũng cần có chính sách phù hợp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động trong chuỗi cung ứng nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ cho quá trình gia công, lắp ráp hàng hóa, tạo đà cho các doanh nghiệp trong nước phát triển…

Phóng viên: Xin cám ơn ông!

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục