Hoàn thiện chính sách về xử lý nợ xấu

15:19' - 24/11/2021
BNEWS Thời gian qua, để tạo hành lang pháp lý trong quá trình xử lý nợ xấu Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định về việc xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Ngày 24/11, tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo “Xử lý nợ xấu trong đại dịch COVID-19 và hoàn thiện chính sách pháp luật về xử lý nợ xấu theo hướng luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14” do Ủy ban Chính sách thuộc Hội đồng Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tổ chức.

Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, nợ xấu là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Nợ xấu tăng cao có thể dẫn đến tổ chức tín dụng bị thua lỗ, nếu không xử lý kịp thời có thể gây ra sự đổ vỡ ngân hàng, đe dọa an ninh tài chính quốc gia. Nợ xấu là hiện tượng không thể tránh khỏi của bất kỳ nền kinh tế nào. 

Thời gian qua, để tạo hành lang pháp lý trong quá trình xử lý nợ xấu Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định về việc xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng; trong đó có Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong xử lý nợ xấu, tạo cơ chế xử lý đồng bộ, hiệu quả giúp các tổ chức tín dụng đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu.

Nghị quyết tạo điều kiện cho các bộ, ngành, địa phương tích cực phối hợp với ngành ngân hàng trong xử lý nợ xấu, ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các tổ chức tín dụng trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 42; cùng với những quy định mới của Luật các Tổ chức tín dụng (sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010), khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu trong quá trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại được hoàn thiện, đưa tỷ lệ nợ xấu về mức thấp, có kiểm soát.

Ông Nguyễn Quốc Hùng cho biết, từ năm 2017 trở về trước, việc xử lý nợ rất khó khăn. Tuy nhiên, tới khi có Nghị quyết 42, thái độ của khách hàng trong việc phối hợp xử lý nợ xấu đã có chuyển biến, nhiều khách hàng trước đây chây ì, thiếu thiện chí trong việc bàn giao tài sản, chống đối nhằm kéo dài thời gian xử lý, thì sau đó đã hợp tác với các tổ chức tín dụng, bàn giao tài sản để các tổ chức tín dụng xử lý phát mại và thu hồi nợ.

Tính đến cuối tháng 8/2021, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được khoảng 1.300 nghìn tỷ đồng nợ xấu; trong đó, tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đến 31/8/2021 là 424,1 nghìn tỷ, đã xử lý được 364,1 nghìn tỷ đồng kể từ 15/08/2017 - 31/08/2021.

Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng được phép chủ động quyết định biện pháp xử lý khoản nợ là bán nợ, thu giữ tài sản cho dù có hay không có sự đồng ý của bên vay/bên bảo đảm đã tạo áp lực rất lớn buộc bên vay/bên bảo đảm phải có trách nhiệm trong việc trả nợ và phải hợp tác với các tổ chức tín dụng trong quá trình xử lý nợ nếu không muốn mất tài sản;

Ông Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, nhờ các giải pháp xử lý nợ xấu được triển khai đồng bộ cùng với các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa nợ xấu mới phát sinh đã góp phần giải quyết nhanh, dứt điểm nợ xấu tại các tổ chức tín dụng thời gian qua, các tổ chức tín dụng đã xử lý được khối lượng khá lớn nợ xấu, lành mạnh hóa bảng cân đối, góp phần cải thiện đáng kể hiệu quả kinh doanh của các tổ chức tín dụng.

Cùng với những kết quả đã đạt được, việc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 vẫn gặp phải nhiều khó khăn như quyền thu giữ tài sản bảo đảm, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm, thủ tục thay đổi đăng ký giao dịch bảo đảm khi mua bán khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất.

Ông Nguyễn Quốc Hùng nhận định, kết quả đạt được là rất tích cực nhưng khó khăn, vướng mắc vẫn còn, ảnh hưởng đến tiến độ xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng vì nợ xấu là vấn đề liên tục, luôn hiện hữu của ngành Ngân hàng.

Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 từ năm 2020 đến nay đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, dẫn đến nợ xấu tăng đột biến mà bản thân các tổ chức tín dụng không thể tự xử lý trên cơ sở các quy định hiện hành, cần phải có chính sách, cơ chế đặc thù của Nhà nước mới xử lý được.

Đại diện Vietcombank cho biết, ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 khiến tăng nợ xấu, làm chậm tiến độ xử lý và giảm hiệu quả thu hồi nợ. Bên cạnh đó, văn bản quy định pháp luật chưa hoàn thiện, nhiều văn bản chưa rõ ràng, chưa hỗ trợ việc xử lý, thu hồi nợ. Trong khi đó, thị trường hoạt động mua, bán nợ vận hành chưa hiệu quả. 

Trong khi đó, theo đại diện Vụ Pháp chế - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì Nghị quyết 42 là nghị quyết thí điểm nên hiệu lực chỉ kéo dài 5 năm, đến ngày 15/8/2022, Nghị quyết 42 sẽ hết hiệu lực thi hành. Khi hết hiệu lực thi hành, toàn bộ cơ chế về xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 đang được thực hiện sẽ chấm dứt, việc xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan, không được ưu tiên áp dụng một số chính sách được quy định tại Nghị quyết 42. Điều này sẽ tác động lớn đến quá trình xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Công ty Quản lý tài sản (VAMC).

Do đó, để tiếp tục nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu, trên cơ sở ý kiến đề xuất của các tổ chức tín dụng, VAMC, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đề xuất Chính phủ đề xuất Quốc hội về việc hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý nợ xấu nhằm tiếp tục duy trì, phát triển các chính sách tại Nghị quyết 42.

Theo các chuyên gia, việc luật hóa xử lý nợ xấu cũng là tăng hiệu lực, hiệu quả của việc thể chế, một trong ba đột phá chiến lược tiếp tục được Đại hội Đảng XIII lựa chọn, thông qua. Trong dài hạn, việc luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu là rất cần thiết, khi đó lĩnh vực xử lý nợ xấu sẽ có văn bản luật riêng để điều chỉnh, các quy định xử lý nợ xấu sẽ có giá trị pháp lý cao hơn, giúp cho ngành ngân hàng và các cơ quan Nhà nước liên quan phối hợp xử lý nợ xấu hiệu quả hơn.

Đại diện Vietcombank cho rằng, việc luật hóa Nghị quyết số 42 là cần thiết để hoàn thiện hành lang pháp lý, giúp các tổ chức tín dụng, với sự hỗ trợ của các cơ quan ban ngành có liên quan, xử lý nợ xấu hiệu quả, thực chất, bền vững; các nhà đầu tư (trong và ngoài nước) an tâm mua, bán các khoản nợ xấu/tài sản bảo đảm; nâng cao ý thức trả nợ của các khách hàng; cải thiện “cách nhìn” của xã hội, người dân đối với hoạt động xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng./. 

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục