Khai phá nguồn phụ phẩm nông nghiệp tỷ USD

09:30' - 17/08/2025
BNEWS Mỗi năm cả nước tạo ra khoảng 150–160 triệu tấn phế, phụ phẩm nông nghiệp; trong đó, trồng trọt khoảng 94 triệu tấn, thủy sản khoảng 1 triệu tấn.. .

Xưởng chế biến cá đục của Công ty TNHH Thủy sản Tứ Hải tại TP. Hồ Chí Minh có hơn 80% sản phẩm là cá đục phi lê xuất khẩu sang Nhật Bản. Trước đây, đầu và xương cá chỉ được bán với giá rẻ vài nghìn đồng/kg cho các cơ sở làm thức ăn gia súc, vừa ít giá trị, vừa dễ phân hủy gây ô nhiễm. Sau nhiều lần trăn trở, ông Đào Quốc Tuấn, Tổng Giám đốc Công ty nhận ra xương cá đục rất giàu canxi và hoàn toàn có thể chế biến thành sản phẩm giá trị cao. 

Tìm hiểu kỹ nhu cầu của khách hàng Nhật Bản, ông lên ý tưởng xuất khẩu xương cá đục sang thị trường này. Nguyên liệu sau khi tách thịt được làm sạch, sấy khô đã trở thành món ăn giòn rụm, tẩm mè hoặc lăn bột chiên, bày bán trong các nhà hàng ở Nhật Bản. Từ một thứ từng bị coi là phế phẩm, xương cá đục nay vừa mang lại doanh thu, vừa nâng tầm thương hiệu doanh nghiệp, đồng thời đóng góp vào mục tiêu sản xuất tuần hoàn của ngành thủy sản.

 

Không chỉ xương cá mà vỏ xoài, lá dứa... cũng được tận dụng để làm phân hữu cơ, sợi vải, chất tẩy rửa sinh học hay món ăn xuất khẩu. Những mô hình sản xuất sáng tạo này đang minh chứng rằng, phụ phẩm nông nghiệp không phải rác thải mà là nguồn tài nguyên trong nền kinh tế tuần hoàn.

Đồng Tháp – thủ phủ xoài của Đồng bằng sông Cửu Long mỗi năm có tới 60.000–75.000 tấn vỏ, hạt và cùi xoài sau chế biến. Nếu không xử lý, đây là gánh nặng môi trường. Cũng bắt đầu từ việc nhìn ra giá trị của thứ từng bị bỏ đi, từ kết quả nghiên cứu của Viện Cây ăn quả miền Nam và Sở Khoa học và Công nghệ Đồng Tháp, Công ty TNHH Nhiên liệu, Nông nghiệp Đồng Tháp đã xây dựng nhà máy sản xuất phân hữu cơ sinh học từ phụ phẩm xoài, công suất 30 tấn/ngày, tương đương 9.000 tấn/năm. 

Giám đốc Công ty TNHH Nhiên liệu, Nông nghiệp Đồng Tháp Trần Ngọc Phúc cho biết, hoạt động này vừa giúp xử lý triệt để phụ phẩm, vừa mang lại doanh thu hàng chục tỷ đồng mỗi năm, đồng thời cung cấp nguồn phân bón hữu cơ chất lượng, giúp nông dân giảm chi phí và cải thiện đất trồng. Vòng tuần hoàn từ xoài thành phân hữu cơ rồi quay lại bón cho chính cây xoài hoặc cây trồng khác không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn tạo nền tảng cho nông nghiệp xanh, bền vững.

Cây dứa cũng đang nổi lên là cây trồng chủ lực trong nhóm cây ăn quả ở Việt Nam. Vỏ dứa, lá dứa cũng đang bước vào một vòng đời mới nhờ những ý tưởng sáng tạo. Vỏ dứa nay trở thành nguyên liệu sản xuất chất tẩy rửa sinh học Fuwa3e của Công ty TNHH Fuwa Biotech. Ông Lê Duy Hoàng – nhà sáng lập đã thử nghiệm ủ vỏ dứa hai tháng để thu được eco enzyme, kết hợp với phụ liệu thực vật, tạo ra sản phẩm thân thiện môi trường. Sau 6 năm, sản phẩm này đã chinh phục những thị trường khó tính như Hàn Quốc, Mỹ, Đức. 

 

Cũng từ cây dứa, Công ty Faslink cùng đối tác nghiên cứu biến lá dứa thành sợi vải mềm mại, có khả năng chống nắng và khử mùi, mở ra hướng đi mới cho ngành thời trang Việt. Một doanh nghiệp khác, Công ty cổ phần Chế biến Thủy hải sản Liên Thành đã sử dụng dứa để ủ chượp làm nước mắm chay, tạo ra sản phẩm có hương vị gần giống nước mắm cá, đáp ứng xu hướng tiêu dùng mới.

Những mô hình đó chỉ là phần nổi của “tảng băng” phụ phẩm nông nghiệp Việt Nam. Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, mỗi năm cả nước tạo ra khoảng 150–160 triệu tấn phế, phụ phẩm nông nghiệp; trong đó, trồng trọt khoảng 94 triệu tấn, thủy sản khoảng 1 triệu tấn.. . Riêng rơm rạ chiếm tới 47% lượng phụ phẩm trồng trọt, nhưng mới chỉ khoảng 30% được tái sử dụng; phần còn lại bị bỏ, đốt ngoài đồng hoặc thải ra môi trường. Trấu, vỏ cà phê, lõi ngô… vẫn là nguồn nguyên liệu dồi dào chưa khai thác hết.

Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Huỳnh Tấn Đạt cho biết, ngành đang hướng tới tận dụng tối đa phụ phẩm cho các lĩnh vực giá trị gia tăng như vật liệu xây dựng, năng lượng tái tạo, phân bón sinh học; khuyến khích ứng dụng công nghệ chế biến sinh học tại chỗ, sản xuất enzyme và than sinh học để vừa giảm ô nhiễm, vừa cải tạo đất. 

Còn riêng với thủy sản, tiềm năng còn lớn hơn nhiều, nếu được đầu tư bài bản, ngành chế biến phế, phụ phẩm có thể mang lại 4–5 tỷ USD mỗi năm, thay vì chỉ dừng ở mức 275 triệu USD như hiện nay.

Với phụ phẩm trồng trọt, theo bà Đỗ Thị Hương, Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI) tại Việt Nam) một trong những hướng đi tiềm năng là sản xuất than sinh học như rơm rạ, trấu, vỏ cà phê. Để phát triển thị trường này, Việt Nam cần hoàn thiện khung pháp lý, công nhận than sinh học như một loại phân bón, xây dựng hệ thống đo lường – báo cáo – thẩm định (MRV) và cơ chế tín chỉ carbon; đồng thời triển khai các mô hình thí điểm tại vùng nguyên liệu dồi dào, kết hợp công nghệ nhiệt phân quy mô nhỏ và hợp tác với nhà đầu tư trong và ngoài nước. Kinh nghiệm Hàn Quốc cho thấy, khi có chính sách trợ cấp và công nhận chính thức, thị trường than sinh học đã phát triển nhanh chóng, mang lại lợi ích cho cả nông dân lẫn doanh nghiệp.

Thành công của những sản phẩm từ phụ phẩm tưởng chừng chỉ bỏ đi ấy đã minh chứng cho thấy khoa học công nghệ khi sát với thực tiễn sẽ phát huy hiệu quả, đem lại giá trị kinh tế. Các chính sách đồng bộ sẽ khuyến khích nông dân, doanh nghiệp và nhà khoa học tham gia. Khi đó, xử lý được nguồn phụ phẩm nông nghiệp không chỉ góp phần giảm ô nhiễm môi trường, mà còn trở thành nguồn tài nguyên thực sự, kéo dài chuỗi giá trị nông sản, giúp nông nghiệp Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu xanh, tuần hoàn và bền vững.

 

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục