Khai thác nước “quá mức” ở ĐBSCL: Bài cuối: Cần giải pháp bền vững
Các giải pháp đặt ra đang vô cùng cấp bách đòi hỏi sự vào cuộc của các cấp, ngành có liên quan nhằm thực hiện đúng Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.
Phóng viên của TTXVN đã có cuộc trao đổi với Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Khuyến để làm rõ vấn đề này.
*Phóng viên: Trước thực tế sụt lún đất đang diễn ra ở Đồng bằng sông Cửu Long, nhiều chuyên gia nhận định do khai thác nguồn nước ngầm quá mức, theo ông, đâu là nguyên nhân chính gây ra tình trạng trên? *Phó Cục trưởng Nguyễn Minh Khuyến: Theo tôi, nguyên nhân gây sụt lún bề mặt đất vùng Đồng bằng sông Cửu Long gồm 2 nhóm: tự nhiên (đặc điểm vùng với trầm tích trẻ, đang trong quá trình cố kết, nén chặt của các lớp trầm tích, hoạt động tân kiến tạo, quá trình bóc mòn, bồi tụ bề mặt địa hình...) và do nhân tạo (khai thác nước dưới đất quá mức, xây dựng đô thị, các công trình kết cấu hạ tầng, đường giao thông, quá trình tác động xung lực của hoạt động giao thông...).Về nguyên nhân lún do tự nhiên, kết quả nghiên cứu bước đầu do Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện đã ghi nhận xu thế nâng, hạ - sụt lún vùng Đồng bằng sông Cửu Long có biên độ nâng, hạ ở mức độ khác nhau, biên độ nâng từ 2,4 - 11,4 mm/năm (ở tỉnh An Giang, Kiên Giang).
Biên độ hạ từ 7,4 - 11,8 mm/năm trên diện tích còn lại của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Việc sụt lún do nguyên nhân tự nhiên có xu hướng giảm dần cho đến khi đồng bằng ổn định.
Về nguyên nhân do nhân tạo, đến nay, chưa có nghiên cứu, đánh giá cụ thể để xác định mức độ của từng nguyên nhân gây lún do con người tác động.Nhưng khai thác nước dưới đất quá mức chính là một trong những nguyên nhân gây sụt lún đất ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Xét tổng thể chung toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long thì ở những vùng không bị lún có mật độ khai thác nhỏ và ngược lại đối với vùng bị lún.
Tuy nhiên có khu vực khai thác với mật độ cao nhưng lại không bị lún hoặc lún ít hơn so với các khu vực khai thác với mật độ nhỏ hơn (khu vực Tân An, Thủ Thừa và Bến Lức (tỉnh Long An ) và Tân Phước, Châu Thành (tỉnh Tiền Giang) có mật độ khai thác 1,21 nghìn m3/ngày/km2 lại thuộc vùng không bị lún hoặc chỉ lún dưới 5cm).Có khu vực không khai thác nhưng vẫn bị lún, thậm chí còn bị lún cao hơn khu vực Châu Thành (tỉnh Hậu Giang) mật độ khai thác khoảng 59 m3/ngày/km2. Khu vực Kế Sách (tỉnh Sóc Trăng) mật độ khai thác khoảng 46 m3/ngày/km2 nhưng đều thuộc vùng lún trên 10cm.
Như vậy, có thể thấy tình trạng sụt lún đất tại từng khu vực là hệ quả tổng hợp của các nguyên nhân tự nhiên và do hoạt động của con người là nguyên nhân chính.Vấn đề này cần phải được tiếp tục nghiên cứu, phân tích đánh giá toàn diện, cụ thể đối với từng khu vực để có giải pháp ứng phó phù hợp.
*Phóng viên: Trong thời gian qua, Cục Quản lý tài nguyên nước đã triển khai các giải pháp gì nhằm tăng cường quản lý khai thác nguồn nước ngầm tại các địa phương? *Phó Cục trưởng Nguyễn Minh Khuyến: Tại điều 45, Luật Tài nguyên nước quy định Nhà nước "…có chính sách ưu đãi, khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước đầu tư vào việc tìm kiếm, thăm dò, khai thác nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt".Do đó cá nhân được quyền khai thác nước cho sinh hoạt tuy nhiên việc khai thác đó phải đảm bảo các quy định pháp luật về tài nguyên nước như phải đăng ký khai thác, có giấy phép khai thác.
Hoặc không phải đăng ký, không cần giấy phép nếu là nước cho sinh hoạt sản xuất hộ gia đình với quy mô nhỏ.
Năm 2018, Cục Quản lý tài nguyên nước đã tham mưu trình Bộ Tài nguyên và Môi trường, để Bộ trình Chính phủ ban hành Nghị định số 167/2018/NĐ-CP Quy định việc hạn chế khai thác nước dưới đất.Trong đó quy định các địa phương tổ chức khoanh định, công bố Danh mục các vùng hạn chế khai thác nước dưới đất và áp dụng các biện pháp hạn chế khai thác tại các khu vực nước dưới đất có nguy cơ bị ô nhiễm, xâm nhập mặn, hạ thấp mực nước quá mức, sụt lún đất…
Nghị định quy định cụ thể chiều sâu mực nước khai thác cho từng vùng. Ví dụ: vùng nội thành thành phố Hà Nội không quá 35 m; Thành phố Hồ Chí Minh không quá 40 m; Tây Nguyên không quá 50 m; Đồng bằng sông Cửu Long không quá 30 m (riêng Cần Thơ không quá 35 m).
Cục cũng đã tham mưu trình Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư 72/2017/TT-BTNMT quy định về việc xử lý, trám lấp giếng khoan không sử dụng nhằm phòng ngừa ô nhiễm nguồn nước; Thông tư số 47/2017/TT-BTNMT giám sát khai thác tài nguyên nước. Đồng thời, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang triển khai lập các Quy hoạch tài nguyên nước nhằm quản lý chặt chẽ khai thác sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước và phát triển nguồn nước dự kiến 2024 hoàn thành 10 Quy hoạch Tổng hợp lưu vực sông theo Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 21/01/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường theo Kết luận số 56-KL/TW ngày 23/8/2019 của Bộ Chính trị. *Phóng viên: Theo ông, thời gian tới, Đồng bằng sông Cửu Long cần có chiến lược bền vững như thế nào để đảm bảo đủ lượng nước cho sinh hoạt và phát triển kinh tế cho vùng đất vốn được mệnh danh là cái nôi của “văn minh sông nước - miệt vườn”? *Phó Cục trưởng Nguyễn Minh Khuyến: Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, với cách tiếp cận thay đổi tư duy, là phát triển thuận thiên, phù hợp, thích ứng với sự thay đổi quy luật đối với nguồn nước Đồng bằng sông Cửu Long. Về phía Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có các giải pháp cụ thể để chủ động ứng phó với sự thay đổi về nguồn nước ở Đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm các giải pháp trước mắt và lâu dài.Với các giải pháp trước mắt, đó là theo dõi sát diễn biến thời tiết; tăng cường nhận định, dự báo sớm về tình hình khí tượng thủy văn, dòng chảy, triều, xâm nhập mặn, cung cấp thông tin kịp thời để các địa phương chủ động chỉ đạo thực hiện các biện pháp phòng, chống.
Theo dõi chặt chẽ tình hình xả nước của các hồ chứa thủy điện trên dòng chính sông Mê Công và các hồ chứa trên các dòng nhánh để có giải pháp xử lý kịp thời bổ sung nguồn nước đẩy mặn nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng thiếu nước ngọt; tìm kiếm, khai thác nguồn nước dưới đất để kịp thời cấp nước sinh hoạt cho nhân dân các vùng bị thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng...
Các địa phương tuyên truyền rộng rãi, hướng dẫn người dân thực hiện các biện pháp sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, nhất là trong tưới tiêu, chống lãng phí nguồn nước.
Với các giải pháp dài hạn, vùng Đồng bằng sông Cửu Long cần tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo, nhất là dự báo hạn theo tháng, mùa; xây dựng hệ thống giám sát, dự báo cảnh báo sớm diễn biến tài nguyên nước, bao gồm cả phần thượng nguồn, toàn lưu vực và sụt lún, sạt lở bờ sông bờ biển.Vùng chủ động rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, các quy hoạch ngành, lĩnh vực, đặc biệt là quy hoạch thủy lợi, nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản trên cơ sở khả năng thực tế của nguồn nước.
Đồng thời, nghiên cứu đề xuất các phương án tăng cường khả năng trữ lũ, giữ nước ngọt với quy mô phù hợp với Đồng bằng sông Cửu Long nhằm tăng cường trữ nước, điều tiết nguồn nước, trong đó Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phê duyệt Dự án “Xây dựng các giải pháp tổng thể trữ nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long để giải quyết vấn đề thừa nước vào mùa lũ, thiếu nước vào mùa khô phục vụ cho phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long”.Theo đó nghiên cứu một cách tổng thể các giải pháp trữ nước, tận dụng các nhánh sông để trữ nước với chức năng như các hồ chứa nước tự nhiên và xây dựng các hồ chứa nước nhân tạo tại các vùng khan hiếm nước.
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch tài nguyên nước trong điều kiện biến đổi khí hậu và tác động do các hoạt động khai thác sử dụng nước của các quốc gia ở thượng nguồn sông Mê Công.
Khu vực tập trung điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất, nhất là các tầng chứa nước nằm sâu để phục vụ cấp nước sinh hoạt ở các vùng thường xuyên bị xâm nhập mặn. Các công trình khai thác nước ngầm được xây dựng để kết hợp dự phòng sẵn sàng ứng phó với xâm nhập mặn khi cần thiết. Cùng với đó, các địa phương tăng cường chia sẻ thông tin, dữ liệu toàn vùng, xây dựng cơ sở dữ liệu tích hợp dùng chung cho cả vùng về khí tượng, thủy văn, tài nguyên nước, đất đai và cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa trung ương và địa phương, các ngành./. *Phóng viên: Xin chân thành cảm ơn ông!Tin liên quan
-
Tài chính & Ngân hàng
Kiểm toán quản lý nguồn nước gắn với mục tiêu phát triển bền vững
10:26' - 05/03/2021
Kiểm toán việc quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Kông gắn với việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững (SDG) là nội dung quyết định vừa được Kiểm toán Nhà nước Việt Nam công bố.
-
Kinh tế & Xã hội
Từ tháng 3-8/2021, nguồn nước sông ở Bắc Bộ thiếu hụt 20-30%
09:59' - 25/02/2021
Từ tháng 3-8/2021, nguồn nước trên lưu vực sông khu vực Bắc Bộ thiếu hụt từ 20-30%, mức thiếu hụt cao hơn 30% xảy ra trên lưu vực sông Thao, hạ lưu sông Lô.
-
Kinh tế & Xã hội
Quy hoạch thủy lợi gắn với phòng, chống thiên tai và an ninh nguồn nước
18:13' - 26/12/2020
Tổng cục Thủy lợi cho biết, năm 2020, ngành thủy lợi đã đạt được 3 kết quả nổi bật. Đó là an ninh nguồn nước; chỉ đạo vận hành công trình thủy lợi; vận hành hồ chứa nước an toàn, hiệu quả.
Tin cùng chuyên mục
-
Kinh tế Việt Nam
Những tuyến cao tốc mới mở cơ hội phát triển cho Đồng Tháp
18:41'
Những tuyến cao tốc mới được xây dựng trên địa bàn tỉnh, mở ra cơ hội phát triển mới cho Đồng Tháp nói riêng và Đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
-
Kinh tế Việt Nam
Kinh tế Việt Nam đang ở ngã rẽ phát triển quan trọng
18:27'
Những mô hình kinh tế cũ dựa vào tài nguyên, lao động giá rẻ đã tới hạn; đất nước cần động lực mới có chiều sâu, tính đổi mới và lan tỏa, phù hợp bối cảnh kỷ nguyên số và kinh tế xanh.
-
Kinh tế Việt Nam
Ông Nguyễn Khắc Toàn được bầu làm Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa
18:21'
Chiều 16/9, tại kỳ họp thứ 2 HĐND tỉnh Khánh Hòa khóa VII nhiệm kỳ 2021 - 2026, ông Nguyễn Khắc Toàn, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy được bầu làm Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa.
-
Kinh tế Việt Nam
Doanh nhân trẻ "hiến kế" phát triển kinh tế tư nhân
18:14'
Chiều 16/9, trong khuôn khổ Phiên đối thoại cấp cao của Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam (VPSF) 2025, nhiều doanh nhân trẻ, chuyên gia... đã "hiến kế" phát triển kinh tế tư nhân.
-
Kinh tế Việt Nam
Tăng kết nối sản xuất thương mại, logistics biên giới Tây Nam
17:39'
Tăng cường kết nối sản xuất thương mại, logistics khu vực biên giới Tây Nam đang được xem là hướng đi chiến lược nhằm mở rộng thị trường và tạo sức bật mới cho doanh nghiệp.
-
Kinh tế Việt Nam
TP. Hồ Chí Minh sắp làm việc lần 5 với thanh tra của EC về "thẻ vàng" IUU
17:38'
TP. Hồ Chí Minh đang bước vào giai đoạn cao điểm, nước rút trong chống khai thác thủy sản bất hợp pháp để chuẩn bị làm việc với Đoàn thanh tra lần thứ 5 của Ủy ban châu Âu (EC) về "thẻ vàng" IUU.
-
Kinh tế Việt Nam
Quảng Ninh chi trên 10 tỷ đồng cho các dự án nông nghiệp hữu cơ
15:45'
Nhằm hiện thực hóa mục tiêu nông nghiệp bền vững, năm 2022, Quảng Ninh đã phê duyệt Đề án “Phát triển nông nghiệp hữu cơ đến năm 2025, định hướng 2030”.
-
Kinh tế Việt Nam
Đà Nẵng phấn đấu trở thành trung tâm kinh tế - xã hội đa ngành, đa lĩnh vực
14:57'
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đà Nẵng tự tin, quyết tâm đưa thành phố “cất cánh” trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
-
Kinh tế Việt Nam
Việt Nam - Malaysia: Mở ra nhiều cơ hội mới trong hợp tác thương mại
14:38'
Tính đến hết tháng 7/2025, kim ngạch thương mại song phương đã đạt 9,23 tỷ USD, tăng 8% so với cùng kỳ 2024, tiến gần mục tiêu 18 tỷ USD trong những năm tới.