Liệu các nền kinh tế mới nổi đang đứng trên bờ vực của một “thập kỷ mất mát” nữa?

05:30' - 02/05/2022
BNEWS Theo The Economist (Anh), lãi suất tăng, lạm phát và địa chính trị là một hỗn hợp rủi ro mà các nền kinh tế mới nổi đã và sẽ phải vật lộn để đối phó trong thời gian tới.
Các nền kinh tế mới nổi với hy vọng vươn mình vào hàng ngũ những nước giàu có đã phải đối mặt với một loạt thách thức dường như không bao giờ kết thúc trong những năm gần đây. Căng thẳng thương mại, đại dịch, gián đoạn trong chuỗi cung ứng, lạm phát và xung đột đã cùng nhau giáng những đòn nặng nề vào các nền kinh tế này.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo, sản lượng kinh tế tại các thị trường mới nổi sẽ tăng 3,8% trong năm nay và 4,4% vào năm 2023, số liệu đã được điều chỉnh giảm mạnh kể từ năm ngoái và thấp hơn mức trung bình hàng năm 5% trong thập kỷ trước năm 2019.

Khi các đường nét của bối cảnh hậu đại dịch được chú ý, một “thập kỷ mất mát” - giai đoạn tăng trưởng chậm, các cuộc khủng hoảng tài chính tái diễn và bất ổn xã hội - đối với các quốc gia nghèo hơn trên thế giới ngày càng có cơ sở.
Trước đây, các nền kinh tế mới nổi đã từng trải qua thời kỳ khó khăn. Trong những năm 1960 và 1970, các nước này đã chứng kiến một thời kỳ tương đối thịnh vượng, điều này khiến họ lạc quan về triển vọng của những nước nghèo trên thế giới.

Nhưng thời kỳ tốt đẹp đã được tiếp nối bởi những gì nhà kinh tế William Easterly của Đại học New York mô tả là những thập kỷ mất mát của những năm 1980 và 1990. Trong 10 năm đến 1990, tăng trưởng GDP bình quân đầu người hàng năm ở các nền kinh tế mới nổi trung bình đã giảm xuống dưới 0. 
Từ cuối những năm 1990 trở đi, một sự bùng nổ mới đã bắt đầu, điều này đặt lại kỳ vọng về tiềm năng kinh tế của các nước đang phát triển.

Tuy nhiên gần đây hơn, con lắc đã quay trở lại và sự phát triển ngày càng khó xảy ra hơn. Các thị trường mới nổi phải đối mặt với những trở ngại về cấu trúc, chẳng hạn như các tai ương tài chính và các mô hình thương mại thay đổi, gợi nhớ đến những trở ngại đã đối mặt trong những năm 1980 và 1990.
Áp lực tài chính là mối đe dọa nghiêm trọng nhất. Vào đầu những năm 1980, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã tăng lãi suất đáng kể khi tìm cách kiềm chế lạm phát. Đối với các nền kinh tế nghèo vốn đã vay nặng lãi trong những năm trước đó, việc thắt chặt điều kiện tài chính và đồng USD mạnh lên sau đó là quá sức chịu đựng. Sau đó sẽ kéo theo làn sóng nợ và khủng hoảng ngân hàng.

Một số điều kiện đó dường như quen thuộc đối với ngày nay. Cả nợ công và nợ tư nhân ở thế giới mới nổi đều tăng đều đặn theo tỷ trọng GDP trong những năm 2010, và tăng vọt trong thời kỳ đại dịch. Tỷ lệ nợ công ở các nền kinh tế có thu nhập trung bình hiện đang ở mức cao kỷ lục và tình trạng nợ nần ở các nước nghèo nhất đã tăng theo mức suy yếu của những năm 1990. 
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), trong số 70 quốc gia có thu nhập thấp trên thế giới, hơn 10%, bao gồm cả Chad và Somalia, đã phải đối mặt với gánh nặng nợ không bền vững; 50% khác, bao gồm Ethiopia và Lào, có nguy cơ cao đạt được trạng thái như vậy. Một thập kỷ trước, chỉ khoảng một phần ba các nước nghèo đang ở hoặc có nguy cơ cao lâm vào cảnh túng quẫn.
Việc xung đột Nga-Ukraine nổ ra đã làm gia tăng chi phí lương thực và năng lượng. Lúa mỳ và dầu đều đắt hơn khoảng 50% so với một năm trước. Đối với các nước nhập khẩu, điều này làm tăng chi phí tài chính của trợ cấp lương thực và năng lượng, làm cạn kiệt dự trữ ngoại tệ và đè nặng lên tăng trưởng kinh tế. 
Giá cả tăng cũng làm tăng áp lực buộc các ngân hàng trung ương ở các nước giàu có trên thế giới phải thắt chặt chính sách tiền tệ. Các nhà đầu tư kỳ vọng Fed sẽ nâng lãi suất chuẩn lên gần 3 điểm phần trăm vào năm 2022, đây sẽ là mức tăng lãi suất lớn nhất trong một năm kể từ đầu những năm 1990. Thêm vào đó là ảnh hưởng của bảng cân đối kế toán của Fed bị thu hẹp, và việc thắt chặt chính sách tiền tệ năm nay có thể là ấn tượng nhất kể từ những năm 1980.
Các thị trường đang tạo ra áp lực lớn lên các nền kinh tế mới nổi dễ bị tổn thương. Khi dòng vốn chảy sang Mỹ để tận dụng tỷ giá cao hơn, đồng USD đang mạnh lên, và tăng hơn 10% trong năm qua. Chi phí tài trợ vốn ở thế giới mới nổi đang tăng lên cùng với sức mạnh của đồng bạc xanh. 
Lợi suất đối với khoản nợ bằng đồng nội tệ của nền kinh tế mới nổi trung bình đã tăng hơn 1/3 kể từ mùa Hè năm ngoái. Theo IMF, tỷ lệ các công ty phát hành trái phiếu ở mức khó khăn đã tăng hơn gấp đôi, lên hơn 20%. Tình trạng này xuất hiện ở các nước như Ukraine, Ai Cập và Ghana.
Nhiều quốc gia có thể sẽ tiếp bước Sri Lanka, quốc gia đã vỡ nợ vào ngày 12/4 khi không thể thanh toán khoản nợ chính phủ bằng đồng nội tệ của họ. Tuy nhiên, có thể tránh được những cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống vốn là đặc điểm của những thập kỷ mất mát trước đó. 
Chẳng hạn, nhiều nền kinh tế có thu nhập trung bình đã tăng cường khả năng phòng vệ tài chính bằng cách tăng cường dự trữ ngoại hối. Các nhà đầu tư đã trở nên sáng suốt hơn, giảm nguy cơ khủng hoảng lây lan rộng hơn. 
Thay vào đó, nỗi lo lớn hơn là gánh nặng nợ sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng, bằng cách hạn chế khả năng cắt giảm thuế và đầu tư vào giáo dục và cơ sở hạ tầng của các chính phủ.

Các ngân hàng địa phương đã cho chính phủ vay có thể thấy khả năng cho vay đối với những người vay tư nhân bị suy giảm nếu trái phiếu họ nắm giữ mất giá. Nợ chính phủ trong nước hiện chiếm khoảng 17% tài sản ngân hàng ở các nền kinh tế mới nổi, tăng từ 13% vào đầu những năm 2010 và cao hơn nhiều so với mức trung bình 7,5% ở các nước giàu.
Một luồng gió khác đến từ thương mại toàn cầu. Vận may của các nền kinh tế đang phát triển từ lâu đã tăng lên và giảm xuống cùng với nó. Từ năm 1960 đến 1980, thương mại hàng hóa chiếm tỷ trọng trong GDP thế giới đã tăng gấp đôi từ 9% lên 18%. Ngược lại, trong những thập kỷ mất mát, hoạt động thương mại bị đình trệ. 
Thương mại sau đó đã tăng vọt trở lại khi chuỗi cung ứng toàn cầu mở rộng trên khắp Đông và Đông Nam Á nói riêng, nhưng sự liên kết đó lại một lần nữa gặp rủi ro.

Căng thẳng địa chính trị, các chiến dịch quốc gia để tự cung tự cấp và lo ngại về độ tin cậy của chuỗi cung ứng có thể ảnh hưởng đến thương mại, làm giảm cơ hội của các nền kinh tế nghèo trong việc vay công nghệ và bí quyết từ các công ty nước ngoài cũng như bán hàng hóa cho các nền kinh tế tiên tiến.
Nền kinh tế toàn cầu cũng sẽ chịu sự tác động của thị trường mới nổi lớn nhất trong số đó và động lực tăng trưởng chính của thế giới, đó là Trung Quốc. Từ năm 1970 đến năm 2000, châu Mỹ và châu Âu chiếm gần một nửa mức tăng trưởng GDP toàn cầu. 
Sự suy giảm mạnh và kéo dài trong tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế tiên tiến bắt đầu từ những năm 1970 và điều đó đã đè nặng lên nền kinh tế toàn cầu và triển vọng của thế giới mới nổi. Tuy nhiên, vận may đã quay lại vào những năm 2000, khi tăng trưởng bùng nổ ở Trung Quốc đã khiến nước này đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng toàn cầu so với Mỹ và châu Âu cộng lại. 
Sự giảm tốc khiêm tốn ở Trung Quốc, với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 5%, sẽ không khiến nền kinh tế toàn cầu rơi vào tình trạng trì trệ. Tuy nhiên, các biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt, thị trường bất động sản bị phá sản kéo dài và chi phí tiềm tàng của những sai lầm địa chính trị có thể gây ra thiệt hại lớn hơn.
Một số thị trường mới nổi có thể được hưởng lợi từ “kỷ nguyên trì trệ”. Các công ty cảnh giác với việc phụ thuộc vào Trung Quốc có thể chuyển hoạt động sản xuất sang những nơi khác có chi phí thấp. 
Các nước giàu hy vọng ngăn cản những nước nghèo hơn xích lại gần Nga và Trung Quốc có thể hạ thấp các rào cản thương mại và tăng cường đầu tư ra nước ngoài, thúc đẩy triển vọng tăng trưởng trong quá trình này. Giá hàng hóa cao, trong khi kéo dài, sẽ thúc đẩy vận may của các nhà xuất khẩu thực phẩm, năng lượng và kim loại.
Tuy nhiên, về tổng thể, các khoản nợ cao hơn và việc đầu tư vào vốn nhân lực và vật chất không có giá trị trong những năm qua sẽ gây ra một hậu quả nặng nề. IMF dự báo GDP trên toàn thế giới mới nổi sẽ vẫn thấp hơn khoảng 6% so với xu hướng trước đại dịch vào cuối năm 2024. (Để so sánh, GDP của hầu hết những nền kinh tế tiên tiến trên thế giới dự kiến sẽ thấp hơn xu hướng này dưới 1%). 
Nếu không có những sáng kiến táo bạo nhằm giảm gánh nặng nợ nần, đầu tư vào hàng hóa công và mở rộng thương mại, thì với tình trạng tồi tệ như hiện nay, vẫn có thể chỉ là “chương mở đầu” của những gì sắp xảy ra./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục