Lợi thế so sánh nào cho ngành điện tử và thực phẩm trong chuỗi cung ứng toàn cầu?

16:27' - 13/09/2021
BNEWS Trong bối cảnh dịch COVID-19 vẫn có những ngành có cơ hội bứt phá như Điện tử và Thực phẩm để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu đồng thời là một trong những "mạch máu" của nền kinh tế.

Dịch COVID-19 gây nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu và gây khó khăn cho hầu hết các ngành. Trong bối cảnh đó vẫn có những ngành có cơ hội bứt phá như Điện tử và Thực phẩm để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu đồng thời là một trong những "mạch máu" của nền kinh tế.

Để tìm hiểu rõ hơn về lợi thế so sánh cũng như các đề xuất chính sách liên quan đến việc phát triển chuỗi giá trị của 2 ngành này, Kinh tế Việt Nam và Thế giới xin trích dẫn bài viết của Nhóm nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thuộc trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

* Lợi thế so sánh trong phân khúc nào?

Trong giai đoạn 2010-2020, hầu hết các sản phẩm Điện tử và Thực phẩm của Việt Nam có độ phức tạp của sản phẩm (PCI) cao đều là các mặt hàng không có lợi thế so sánh. Xét về sự tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs) trong giai đoạn 2010-2018, cả hai ngành đều nằm ở vị trí hạ nguồn nhưng đều có xu hướng cải thiện vị trí theo hướng gia tăng sự tham gia vào phần thượng nguồn và sự tham gia vào phần hạ nguồn giảm.

Trái ngược với sự gắn kết chặt chẽ với các trung tâm lớn và thâm nhập sâu vào thị trường toàn cầu của ngành Điện tử, Việt Nam còn khá cô độc, tách biệt, chưa thâm nhập sâu vào thị trường toàn cầu ngành thực phẩm. Do đó, cải thiện năng lực sản xuất nội địa của ngành điện tử và nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng các nhu cầu và yêu cầu của thị trường quốc tế của ngành thực phẩm là trọng tâm để cải thiện lợi thế so sánh và vị thế khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của hai ngành trên.

Đối với ngành điện tử, Việt Nam có lợi thế so sánh cao nhưng tập trung vào những sản phẩm có độ phức tạp sản phẩm thấp. Trong giai đoạn 2010-2020, nhóm hàng điện tử xuất khẩu của Việt Nam có giá trị lợi thế so sánh biểu lộ (RCA) đứng thứ 3 thế giới, sau Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và có những bước tăng trưởng nhanh, đều qua các năm. Mười mặt hàng điện tử xuất khẩu có giá trị RCA cao nhất của Việt Nam dao động trong khoảng 1,4 (mạch điện tử) và 5,5 (điện thoại); trong đó cao nhất là điện thoại.

Tuy nhiên, hầu hết các sản phẩm điện tử có giá trị độ phức tạp của sản phẩm (PCI) cao đều là các mặt hàng xuất khẩu mà Việt Nam không có lợi thế so sánh. Bên cạnh đó, việc so sánh giữa PCI và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam theo từng mặt hàng cho thấy rất rõ các sản phẩm điện tử xuất khẩu lớn của Việt Nam chủ yếu là các mặt hàng có tính chuyên môn hoá thấp, công nghệ thấp và được sản xuất tại nhiều nơi khác trên thế giới.

Đối với ngành thực phẩm, Việt Nam không có lợi thế so sánh cho toàn bộ ngành nhưng có lợi thế so sánh ấn tượng với một số mặt hàng thực phẩm. Nếu nhìn lợi thế so sánh ngành ở cấp độ chi tiết hơn, có thể thấy vẫn có những nhóm ngành Việt Nam có lợi thế so sánh, thậm chí có lợi thế cao như nhóm ngành chế biến động vật giáp xác. Nhiều mặt hàng thực phẩm của Việt Nam có lợi thế so sánh nằm trong nhóm dẫn đầu thế giới như: Động vật giáp xác chế biến, dầu mỡ, cá và trứng cá chế biến, bột thịt chế biến, phế liệu thực vật, sản phẩm tinh bột chế biến.

So với mức tham gia chuỗi cung ứng trung bình của tất cả các ngành, Việt Nam hội nhập vào chuỗi cung ứng của ngành thực phẩm cao hơn.

Trong khi đó, ngành công nghiệp điện tử Việt Nam đang có những điều kiện và triển vọng thuận lợi chưa từng có để phát triển nhờ vào việc mở rộng cơ hội xuất khẩu sang thị trường nước ngoài, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh trong lĩnh vực điện tử. Cùng với đó, giá các sản phẩm điện tử, viễn thông sẽ giảm nhiều khi gỡ bỏ hàng rào thuế quan và cơ hội đưa Việt Nam trở thành “công xưởng thứ hai của thế giới” khi một loạt tập đoàn điện tử, viễn thông lớn tuyên bố rút lui khỏi thị trường Trung Quốc, chuyển sang khu vực Đông Nam Á.

Tuy nhiên, ngành điện tử Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít khó khăn trong thời gian tới. Đó là sức ép cạnh tranh ngay thị trường trong nước khi mà năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn yếu, áp lực đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đang ngày càng đè nặng lên hệ thống đại học Việt Nam và chất xám của các doanh nghiệp Việt Nam bị thu hút sang các công ty xuyên quốc gia; tầm vóc và quy mô của doanh nghiệp Việt Nam ở sân chơi quốc tế hầu hết còn khá nhỏ.

Sự thay đổi về cơ cấu sản phẩm từ “cứng” sang “mềm” cũng là thách thức rất lớn đối với doanh nghiệp sản xuất thuộc lĩnh vực điện tử. Ngành điện tử Việt Nam có lệ nội địa hóa thấp và doanh nghiệp FDI đóng vai trò là người tham gia chính, dẫn dắt trong chuỗi giá trị tại Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu điện tử của Việt Nam vẫn chỉ có chỉ số độ phức tạp sản phẩm thấp, chứa đựng ít công nghệ phức tạp và có nhiều đối thủ cạnh tranh cùng trình độ phát triển. Do đó, trong tương lai gần, định vị lợi thế so sánh của nhóm ngành điện tử xuất khẩu của Việt Nam có khả năng sẽ tiếp tục được cải thiện.
*Tận dụng tốt hơn vai trò của các FTA

Ngành điện tử Việt Nam nên tận dụng tốt vai trò của các hiệp định thương mại (FTAs) nhằm tăng cường sự kết nối với các đối tác chiến lược cả ở phía thượng nguồn và hạ nguồn; đa dạng các đối tác khác bên ngoài nội vùng châu Á để giảm thiểu rủi ro khi quá phụ thuộc vào một số quốc gia nhất định trong khu vực. Việt Nam cũng cần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa cho doanh nghiệp Việt Nam trong xuất khẩu điện tử. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần tăng cường hơn nữa khả năng chuyên môn hoá, tập trung sản xuất các sản phẩm công nghệ có độ phức tạp cao, đáp ứng kịp thời các xu thế chuyển dịch cung cầu về nguyên liệu đầu vào công nghệ điện tử, mặt hàng điện tử công nghệ trên thị trường quốc tế.

Để cải thiện lợi thế so sánh và sự tham gia của Việt Nam trong chuỗi giá trị ngành thực phẩm, cần tập trung vào ba trụ cột chính, bao gồm chế biến (thực hiện các nhiệm vụ cụ thể tốt hơn), sản phẩm (tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt hơn, phức tạp hơn hoặc có giá thành cao hơn) và chức năng (có được các kỹ năng mới trong chuỗi giá trị mà công ty chưa thực hiện trước đây).

Về phía các cơ quan quản lý nhà nước, cần tập trung xúc tiến triển khai các cam kết cũng như ký kết các thỏa thuận về công nhận lẫn nhau, hậu kiểm trong lĩnh vực hàng rào kỹ thuật (TBTs); khuyến khích nhập khẩu, chuyển giao công nghệ chế biến thực phẩm; tiếp tục nỗ lực thu hút và tạo môi trường thuận lợi cho FDI vào ngành thực phẩm; đẩy mạnh thực hiện chương trình xây dựng thương hiệu Việt Nam cho ngành thực phẩm; tăng cường truyền thông về các ưu đãi đã cam kết trong FTAs liên quan đến thực phẩm.

Về phía doanh nghiệp, cần tập trung nghiên cứu các lộ trình cắt giảm thuế quan đối với ngành thực phẩm Việt Nam; Tìm hiểu, chuẩn bị và sẵn sàng, điều chỉnh sản xuất đáp ứng các yêu cầu về quy tắc xuất xứ; Tìm hiểu, điều chỉnh sản xuất bảo đảm đáp ứng các yêu cầu về chất lượng; Xây dựng và quảng bá thương hiệu.

Triển vọng tích cực nâng cao lợi thế của ngành thực phẩm Việt Nam đến từ nhiều kênh khác nhau. Hội nhập kinh thế quốc tế sâu rộng thông qua Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và các FTAs đã góp phần giúp Việt Nam định vị trở thành một người chơi quan trọng trong chuỗi giá trị thực phẩm khu vực và toàn cầu. Việc xây dựng và phát triển thương hiệu của ngành thực phẩm ngày càng được Việt Nam quan tâm hơn cũng là những thách thức nhưng cũng hàm chứa cơ hội phát triển cho ngành thực phẩm Việt Nam.

Trong ngắn hạn và trung hạn, vị trí của ngành thực phẩm trong chuỗi giá trị toàn cầu có thể sẽ được cải thiện song định vị lợi thế cạnh tranh của Việt Nam đối với mặt hàng thực phẩm xuất khẩu có khả năng giảm, trước bối cảnh cạnh tranh quốc tế vô cùng khắc nghiệt trong mặt hàng này, đặc biệt từ các quốc gia phát triển có công nghệ cao nếu Việt Nam không có các chính sách phù hợp./.


(Nhóm nghiên cứu Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách, Trường ĐH Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà Nội: TS Vũ Thanh Hương, TS Nguyễn Đức Bảo, TS Nguyễn Xuân Đông, Ths Nguyễn Thị Phương Linh, Ths Trần Thị Mai Thành)

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục