Một góc nhìn cho vấn đề nuôi cá nước lạnh

06:31' - 26/11/2016
BNEWS BNEWS/TTXVN xin giới thiệu bài viết dưới đây như một góc nhìn cho vấn đề nuôi cá nước lạnh để nghề nuôi cá nước lạnh có thể phát triển bền vững, tạo nguồn thu ổn định cho người nuôi.

Du nhập vào Việt Nam hơn 10 năm nay, nghề nuôi cá nước lạnh đã mang lại nguồn thu nhập lớn nhưng theo đó có không ít hệ lụy đó là nguồn giống chưa ổn định, nguy cơ ô nhiễm môi trường, điều kiện nuôi chưa đầy đủ.

Theo nhiều chuyên gia, để nghề nuôi cá nước lạnh phát triển bền vững, tạo nguồn thu cho địa phương có điều kiện đặc thù, cần nhiều giải pháp từ cơ quan quản lý, sự vào cuộc của các nhà khoa học và sự tìm hiểu kỹ càng từ người nuôi. 

Cá tầm, cá hồi là những đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao, thị trường tiêu thụ rất lớn. Ảnh minh họa: kompasiana.com

Các loài cá nước lạnh được hiểu là những loài cá chỉ sinh trưởng và phát triển tốt ở môi trường nước có nhiệt độ thấp, trung bình dưới 25 độ C. Trên thế giới đã có nhiều nước nghiên cứu và đưa vào nuôi thành công nhiều giống loài cá nước lạnh có giá trị cao như: cá tầm Nga, cá tầm Siberian, cá tầm Beluga, cá hồi vân, cá hồi nâu….

Tại châu Á đã có nhiều nước đưa vào sản xuất thành công tạo sản phẩm khối lượng lớn, giá trị cao cung cấp cho thị trường tiêu thụ trên thế giới như Nepal, Thái Lan, Trung Quốc, Bhutan…

Cá tầm, cá hồi là những đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao, thị trường tiêu thụ rất lớn. Thị trường cá hồi vẫn rất lớn nhất là các nước châu Âu, Nga, Nhật Bản và thị trường Mỹ. Nhu cầu sử dụng cá hồi trên thế giới được dự báo sẽ tăng trong thời gian tới. Cá tầm thuộc loại đặc sản, thơm ngon và trứng cá tầm đen là món ăn cao cấp. Trứng cá tầm muối có giá bán rất cao, là một trong những loại thực phẩm đắt nhất trên thế, có thể xuất khẩu sang Mỹ và EU.

Ở Việt Nam, hệ sống sông ngòi, hồ chứa tự nhiên, nhân tạo đa dạng và phong phú, đã tạo nên tiềm năng rất lớn cho ngành thuỷ sản nói chung và nuôi cá nước lạnh nói riêng phát triển.

Căn cứ vào số liệu điều tra, khảo sát của Viện Kinh tế và Quy hoạch thuỷ sản năm 2011-2013, tiềm năng phát triển cá nước lạnh của Việt Nam được xác định là rất lớn, tập trung chủ yếu ở 3 vùng là các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và khu vực trung du, miền núi của các tỉnh khu vực Bắc Trung bộ. Hệ thống sông suối, hồ chứa khu vực này có nhiệt độ tương đối ổn định ở mức thấp quanh năm, hoàn toàn phù hợp với đặc điểm sinh học của các giống loài cá nước lạnh đã nuôi phổ biến trên thế giới.

Từ năm 2004, Nhà nước đã đầu tư các dự án nhập công nghệ, đề tài nghiên cứu về sản xuất giống và nuôi thương phẩm, xây dựng mô hình nuôi cá hồi. Các cơ quan khoa học và doanh nghiệp nước ta đã thành công trong ứng dụng quy trình công nghệ ấp trứng và ương giống, nắm được kỹ thuật nuôi thương phẩm, xây dựng dự thảo quy trình ấp trứng, nuôi ấu trùng và nuôi thương phẩm cá hồi vân.

Việt Nam đã nhập được các loài cá tầm Xiberi, cá tầm Trung Hoa, cá tầm Nga (A.gueldenstaedtii).. Ảnh minh họa: aquariophilie.org

Đến nay, Việt Nam đã xây dựng đàn cá phục vụ nghiên cứu sinh sản nhân tạo, nuôi lấy trứng và đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, đã bước đầu làm chủ công nghệ ương cá giống, nuôi thương phẩm cá tầm.

Thông qua Dự án nhập công nghệ sản xuất giống, đề án nuôi thử nghiệm cá nước lạnh được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I khởi động năm 2005 tại Thác Bạc, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai, sau đó chuyển vào nuôi thử nghiệm tại tỉnh Lâm Đồng vào năm 2007. Đến nay, phong trào nuôi cá nước lạnh đã phát triển mạnh trên 22 tỉnh, điển hình là Lào Cai, Lâm Đồng, Lai Châu, Yên Bái, Sơn La…

Hiện nay, Việt Nam đã nhập được các loài cá tầm Xiberi, cá tầm Trung Hoa, cá tầm Nga (A.gueldenstaedtii), cá tầm Beluga (Huso huso), cá tầm lai (lai giữa 2 loài A.ruthenus x Huso huso), cá hồi vân đưa vào nuôi trồng ở nhiều nơi trên phạm vi cả nước.

Sản lượng nuôi cá nước lạnh trong thời gian qua tăng nhanh. Nếu năm 2007 tổng sản lượng cá nước lạnh mới chỉ đạt 95 tấn (cá tầm 75 tấn, cá hồi 20 tấn), thì đến năm 2013 sản lượng nuôi cá nước lạnh ước đạt khoảng 1.585 tấn (cá tầm 1.123 tấn, cá hồi 462 tấn).

Trước bối cảnh hội nhập thế giới ngày một sâu rộng, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương với các nước và khu vực trên thế giới, đây chính là cơ hội rất lớn để hàng hoá nông sản nói chung và sản phẩm cá nước lạnh nói riêng có thể xuất khẩu sang các thị trường lớn. Đồng thời việc nhập, chuyển giao khoa học công nghệ mới vào sản xuất, chế biến cá nước lạnh sẽ dễ dàng hơn, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.

Bên cạnh những tiềm năng, thời cơ thuận lợi để phát triển cá nước lạnh, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức mới, không chỉ riêng đối với nuôi cá nước lạnh, mà còn đối với cả ngành nuôi trồng thuỷ sản. Đó là tình trạng biến đổi khí hậu đã và đang tác động mạnh mẽ đến hoạt động nuôi cá nước lạnh ở nhiều vùng miền, gây khó khăn cho sản xuất.

Hầu hết các vùng có tiềm năng nguồn nước lạnh nằm ở vùng sâu, vùng xa, cơ sở hạ tầng thiếu thốn, trình độ dân trí thấp, do đó rất khó khăn trong việc đầu tư sản xuất. So với nhiều nước trong khu vực, công nghệ sản xuất cá nước lạnh của chúng ta vẫn lạc hậu, dựa vào khai thác tiềm năng là chính, đa phần phải nhập khẩu các công nghệ của nước ngoài, dẫn đến giá thành cao, sức cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm giảm.

Trước bối cảnh đó, cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, đánh giá để đề xuất được các chính sách, giải pháp phù hợp, khả thi nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả tiềm năng nguồn nước lạnh. Việt Nam phải vừa nhập, vừa nghiên cứu trong nước để từng bước làm chủ công nghệ mới trong nuôi, sản xuất giống, thức ăn và phòng trị dịch bệnh; áp dụng khoa học công nghệ mới, tiên tiến vào sản xuất để tăng năng suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm và giảm giá thành sản xuất.

Đặc biệt cần chủ động chuyển giao công nghệ nuôi, sản xuất giống, các biện pháp phòng trị dịch bệnh, xử lý ô nhiễm môi trường cho các cơ sở nuôi và sản xuất giống cá nước lạnh. Khuyến khích các cơ sở sản xuất áp dụng các quy trình nuôi tiên tiến, thân thiện với môi trường, góp phần nuôi hiệu quả, bền vững.

Trên cơ sở đó từng bước đưa hoạt động nuôi cá nước lạnh nước ta trở thành ngành sản xuất hàng hóa với chất lượng và giá cả cạnh tranh đáp ứng nhu cầu thị trường tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Điều này cũng góp phần tạo việc làm và thu nhập cho đồng bào vùng sâu vùng xa, đồng thời bảo vệ an ninh quốc phòng khu vực Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Nguyên của Tổ quốc./.

 

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục