Nâng cao chất lượng vận hành lưới điện

16:54' - 20/08/2018
BNEWS Điện áp trên lưới 500kV đã ổn định, điện áp vận hành trên lưới 500kV đã tốt hơn nhiều so với các năm trước đây.

Trạm biến áp 500kV Đông Anh. Ảnh: EVNNPT

Mặc dù phải đối mặt với điều kiện cơ sở vật chất hạn chế, tình trạng lưới điện truyền tải luôn ở trong tình trạng căng thẳng, nhưng với sự sáng tạo, kiểm soát chặt chẽ vận hành, Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia (EVNNPT) thời gian qua đã đảm bảo các mục tiêu truyền tải điện an toàn, liên tục, ổn định. Cùng với đó, các sự cố về điện và tổn thất trên đường dây cũng đã được giảm tối đa. 

* An toàn, hiệu quả trên quy mô lớn

Theo báo cáo từ Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia, trong bối cảnh mới được thành lập (2008), lưới điện truyền tải luôn vận hành trong tình trạng căng thẳng, đặc biệt là truyền tải Bắc – Nam rất cao, không đảm bảo dự phòng, nhiều thiết bị vận hành lâu năm xuống cấp, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra sự cố, gây ảnh hưởng đến độ tin cậy cung cấp điện. 

Bên cạnh đó, thu xếp vốn trong giai đoạn đầu từ khi thành lập còn gặp nhiều khó khăn và giá truyền tải điện còn rất thấp. Tất cả những bất lợi đó đã ảnh hưởng lớn đến việc quản lý vận hành, sửa chữa và đầu tư xây dựng lưới điện truyền tải. 

Tuy nhiên, giai đoạn 2008 -2017, vượt qua nhiều khó khăn thách thức, EVNNPT đã quản lý vận hành an toàn, hiệu quả hệ thống điện truyền tải với quy mô lớn với hơn 24 nghìn km đường dây và 137 trạm biến áp 500kV, 220kV (tính đến hết năm 2017). 

Theo ông Tạ Việt Hùng, Trưởng Ban Kỹ thuật – EVNNPT, sau 10 năm, tăng trưởng bình quân số lượng trạm biến áp 500kV, dung lượng máy biến áp 500kV và dung lượng máy biến áp 220kV đạt 2 con số; trong đó, tăng trưởng bình quân về dung lượng máy biến áp 500kV cao nhất đạt 17,19%, tăng trưởng bình quân về chiều dài đường dây 500kV, đường dây 220kV và trạm biến áp 220kV khá cao từ 7,79% đến 9,08%; 4 trạm biến áp 110kV từ khi thành lập năm 2008 đã hoàn thành nâng cấp lên thành trạm biến áp 220kV vào năm 2016. 

Khối lượng quản lý vận hành đường dây và trạm biến áp truyền tải trong 10 năm tăng trưởng bình quân cao, đạt từ 7,79% đến 10,49%, trong khi đó, tổng số vụ sự cố xảy ra trên lưới điện truyền tải có xu hướng giảm; trong đó, các năm gần đây từ 2014 đến 2017, tổng số vụ sự cố đều giảm so với năm 2008. 

Trong vận hành, lưới truyền tải 500kV Bắc – Nam luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Trước năm 2011, xu hướng truyền tải cao từ Nam ra Bắc, sau năm 2011 xu hướng truyền tải công suất trên đường dây 500kV Bắc – Nam chủ yếu theo chiều từ miền Bắc, miền Trung vào miền Nam với công suất và sản lượng truyền tải cao trong cả năm. 

Để đảm bảo cấp điện cho Hệ thống điện miền Nam, ông Tạ Việt Hùng cho hay, các đường dây 500kV Bắc – Nam thường xuyên phải truyền tải công suất cao, đặc biệt là trên giao diện Trung – Nam, trong khi đó, các giàn tụ bù dọc trên đường dây 500kV có dòng định mức 1.000A dẫn đến xảy ra quá tải khi thủy điện miền Bắc phát cao. Việc truyền tải cao công suất trên đường dây 500kV tiềm ẩn nhiều rủi ro khi xảy ra sự cố gây mất ổn định hệ thống điện. 

Do đó, EVNNPT đã khẩn trương đưa vào vận hành đường dây 500kV mạch 3 Pleiku – Mỹ Phước – Cầu Bông, Quảng Ninh – Hiệp Hòa, Quảng Ninh – Thường Tín, Phú Lâm – Ô Môn, Vĩnh Tân – Sông Mây, Sơn La – Lai Châu và các trạm biến áp như 500kV Đăk Nông, Thạch Mỹ, Vũng Áng, Phố Nối, Pleiku 2,... góp phần giảm mức mang tải của các phần tử trong khu vực, tăng độ liên kết hệ thống, giải tỏa công suất các nhà máy, cải thiện điện áp, nâng cao độ an toàn, tin cậy và kinh tế trong chế độ vận hành bình thường và sự cố. Đặc biệt là đường dây 500kV Pleiku – Mỹ Phước – Cầu Bông đã góp phần làm tăng giới hạn truyền tải giao diện Trung – Nam. 

Bên cạnh đó, để tăng khả năng tải trên đường dây 500kV Bắc – Nam, EVNNPT đã đầu tư và hoàn thành nâng dung lượng tụ bù dọc trên các đường dây 500kV từ 1.000A lên 2.000A, các giàn tụ bù này sau khi đưa vào vận hành đã nâng khả năng tải của đường dây, tránh quá tải trong chế độ vận hành bình thường và cải thiện điện áp hệ thống, ông Hùng cho hay. 

Theo đánh giá của đại diện lãnh đạo EVNNPT, đơn vị đã lắp đặt các kháng bù ngang trên dưới (Thạch Mỹ, Pleiku 2, Cầu Bông, Sông Mây, Đà Nẵng...) và lắp đặt máy cắt kháng để đóng cắt linh hoạt trong các chế độ vận hành. Nhìn chung, điện áp trên lưới 500kV đã ổn định, năm 2017, điện áp vận hành trên lưới 500kV đã tốt hơn nhiều so với các năm trước đây. 

Năm 2018, EVNNPT sẽ vận hành nhiều ứng dụng cho lưới điện thông minh. Ảnh minh họa: TTXVN

* Giảm thiểu sự cố và tổn thất điện

Việc quản lý kỹ thuật nhằm giảm thiểu sự cố và tổn thất điện luôn là một trong những mục tiêu hàng đầu được Tập đoàn Điện lực Việt Nam và tổng công ty chú trọng thực hiện. Từ năm 2016, Tổng công ty và các công ty trực thuộc đã thành lập Tổ phân tích để phân tích các sự cố xảy ra trên lưới truyền tải và đã đề xuất được các giải pháp khắc phục và ngăn ngừa sự cố. Từ đó, lãnh đạo các Công ty Truyền tải điện đã chỉ đạo xử lý sự cố, làm rõ trách nhiệm đến từng cá nhân, tập thể.

Đại diện EVNNPT cho rằng, sự cố xảy ra trên lưới điện truyền tải phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như phương thức vận hành, khối lượng công việc, thao tác trên lưới, điều kiện khí hậu, chất lượng của thiết bị sau một thời gian vận hành nhất định. Với sự nỗ lực của đơn vị, sự cố lưới điện truyền tải giảm đã góp phần lớn vào việc đảm bảo vận hành an toàn, tin cậy lưới điện truyền tải và đảm bảo cung cấp điện cho khách hàng. 

Cụ thể, về đường dây, các công ty truyền tải điện đã tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp giảm sự cố do sét như sửa chữa hệ thống tiếp địa 23.412 vị trí; lắp đặt 897 dây néo giảm tổng trở sóng theo kết quả nghiên cứu của Đại học Bách Khoa Hà Nội.

Đồng thời, điều chỉnh chiều dài mỏ phóng 29.878 chuỗi/8,839 vị trí; tăng cường 48.689 chuỗi/6.164 vị trí; thay chuỗi composite cho khu vực có sự biến đổi độ ô nhiễm cao, khu vực có sương muối cho 11.207 chuỗi/2.899 vị trí; vệ sinh cách điện 378 vị trí/51 đường dây tại các vị trí nhiễm bẩn và di chuyển được thiết bị; lắp đặt chống sét van 2.419 bộ/875 vị trí; điều chỉnh góc bảo vệ dây chống sét tại 252 vị trí...

Về trạm biến áp, các đơn vị đã tăng cường kỷ cương, kỷ luật vận hành, tuân thủ chế độ kiểm tra định kỳ, đột xuất quản lý vận hành; theo dõi chặt chẽ thực hiện kế hoạch thí nghiệm định kỳ, thí nghiệm đột xuất. Hồ sơ quản lý kỹ thuật, thông số vận hành, lý lịch thiết bị, ghi nhận, theo dõi, báo cáo, xử lý các hư hỏng và khiếm khuyết thiết bị đã được cập nhật kịp thời.

Cùng đó, lập duyệt phương án thi công và biện pháp an toàn chi tiết; lắp đặt thiết bị hạn chế dòng ngắn mạch; soi phát nhiệt thiết bị; lắp đặt thiết bị giám sát dầu online cho các máy biến áp, kháng 500kV; thực hiện vệ sinh cách điện hotline để giảm nguy cơ phóng điện do nhiễm bẩn thiết bị; rà soát cấu hình và chỉnh định rơ le bảo vệ để kịp thời phát hiện và xử lý các bất thường.../.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục