Thế giới đang đóng băng trước nguy cơ khủng hoảng
Vào năm 2019, các nhà khoa học, chính phủ và doanh nghiệp bắt đầu chờ đợi một cuộc khủng hoảng (sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2010). Cuộc khủng hoảng đó đã không diễn ra, và sau đó đột ngột xuất hiện trong một chu kỳ tăng trưởng dở dang do sự phong tỏa khó chịu của đại dịch COVID-19 vào năm 2020.
Những cú sốc liên tiếpCuộc khủng hoảng này đã gây ra một cuộc suy thoái sâu sắc trong lĩnh vực dịch vụ thay vì công nghiệp như bình thường, đặc biệt đánh vào tiêu dùng của người giàu (bảo tàng, nhà hàng, chuyến bay, du lịch).Các cơ chế tài chính, các bộ tài chính và ngân hàng trung ương đột ngột làm tràn ngập nền kinh tế của hầu hết các quốc gia một dòng tiền giá rẻ. Thêm vào đó là một cuộc khủng hoảng với sự tăng trưởng không điển hình của giá cổ phiếu, tỷ lệ phá sản giảm vào năm 2020. Sự phục hồi bị lệch trong các lĩnh vực hàng hóa đã kéo nhu cầu về hàng hóa và giá cả vào mùa Hè năm 2021 tăng mạnh.
Khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) từ Qatar và Mỹ, đồng thời bắt đầu đổ đến các thị trường có lợi hơn ở châu Á, một cú sốc giá năng lượng ở EU đã hình thành. Các biện pháp trừng phạt làm gia tăng sự lo ngại của thị trường và tạo ra sự hỗn loạn trong việc phân bổ lại dòng xuất khẩu khiến giá năng lượng không thể giảm vào mùa Xuân năm 2022 theo hình thức mà chúng ta đang thấy vào mùa Xuân năm 2023.
Đến mùa Thu, cơ chế lạm phát cao tồi tệ đã bị lãng quên từ những năm 1980 đã hình thành. Thực tế là vào những năm 1990 và 2000, nền kinh tế thế giới đã xoay sở để vượt qua đợt lạm phát cũ. Và bây giờ nó lại xuất hiện, giống như một loại bệnh truyền nhiễm từng bị chôn vùi. Tất cả những điều này đã diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang cạn kiệt sức lực để phục hồi sau COVID.Trong quý IV/2022, đầu tư vào các nước phát triển giảm dần và đình trệ. Đây là lúc các cuộc tranh luận về cách để sống tiếp bắt đầu gia tăng: Kiềm chế lạm phát bằng cách tăng lãi suất hay chờ đợi.
Do logic thông thường thì cần phải tiến hành “điều tiết” lãi suất, trong khi lý thuyết tiền tệ khuyên không nên trì hoãn, cả Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) và Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) bắt đầu tăng mạnh lãi suất cơ bản, đồng thời giảm lượng tài sản cung cấp cho các hệ thống tài chính.
Có vẻ như không ai đặc biệt nhớ đến mối đe dọa đối với hệ thống ngân hàng. Sau vài năm lạm phát và lãi suất thấp, hệ thống tài chính chìm trong "biển" trái phiếu chính phủ có lãi suất thấp và tài sản của các ngân hàng, ví dụ điển hình là ngân hàng Silicon Valley Bank (SVB), và chi phí huy động vốn bắt đầu tăng lên nhanh chóng. Và đến tháng 2/2023, tại Mỹ, sự sụp đổ liên tiếp của một vài ngân hàng và nguy cơ phá sản của nhiều ngân hàng khác đã trở thành một sự kiện.Khó khăn của các ngân hàng cũng được bộc lộ từ tháng Ba, khi “những khó khăn tỉnh giấc”. Tại đây, chính sách của Fed và ECB đã bộc lộ sự khác biệt. Fed duy trì lãi suất ở mức 5% và “bơm” 300 tỷ USD thanh khoản vào hệ thống, còn ECB tăng lãi suất lên 3,5% và tiếp tục giảm tài sản của mình.
IMF bị kẹt giữa hai ngọn lửa và trong “Báo cáo về bền vững tài chính toàn cầu” được đưa ra hồi tháng 4/2023, thể chế tài chính này vẫn ủng hộ thông qua tuyên bố về sự cần thiết phải duy trì ổn định của hệ thống tài chính, nhưng vẫn tiếp tục giám sát lạm phát.
Bộ ba bất khả thiTheo chuyên gia nổi tiếng Nouriel Roubini, người đã dự đoán cuộc khủng hoảng năm 2008. Bộ ba bất khả thi là các ngân hàng trung ương phải lựa chọn giữa sự ổn định của hệ thống ngân hàng (họ sẽ có tiền rẻ hơn) và lạm phát (nhiều tiền hơn), và cuộc khủng hoảng.Giáo sư Roubini tin rằng các ngân hàng trung ương có khả năng thất bại trong việc điều động giữa lựa chọn thứ nhất và thứ hai, và sau đó là nguy cơ suy thoái và khủng hoảng nợ. Vì vậy, người đọc có thể chắc chắn rằng thế giới đã nhận thức được nguy cơ suy thoái và đang chứng kiến những bước ngoặt đầy rủi ro của các cơ quan tài chính thế giới với tăng trưởng thấp và lạm phát cao.
Sự đảo ngược các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh này đã bất ngờ đưa nền kinh tế toàn cầu - ba năm sau - trở lại gần như trước khi có các đợt phong tỏa do đại dịch COVID-19.Nhìn chung, đây là một bước phát triển chưa từng có và bất ngờ xét về mặt lịch sử và lý thuyết chu kỳ kinh doanh do Karl Marx và Clement Juglar đưa ra từ những năm 1860. Kể từ đó, bản thân nền kinh tế, công nghệ và tài chính đã thay đổi, khoa học kinh tế cũng thay đổi, đặc biệt là về chu kỳ kinh doanh.
Chu kỳ kinh doanh không bao giờ có tính định kỳ cứng nhắc - các cuộc khủng hoảng xảy ra trung bình cứ sau 9-11 năm, thậm chí đôi khi là một cú sốc nhỏ giữa các cuộc suy thoái lớn. Nhưng trong ba lĩnh vực nói trên, có vẻ như ai đó đã xoay đồng hồ kinh tế nhanh hơn gấp ba lần. Sự gia tăng rất ngắn và chu kỳ kéo dài ba năm.
Trong chu kỳ này, các khoản nợ của các quốc gia tăng mạnh, phân cấp xã hội, nhưng không có sự sụp đổ lớn của thị trường chứng khoán. Tình hình hiện tại - tăng trưởng chậm lại với tốc độ tăng giá cao vào năm 2023 - có thể được gọi là lạm phát đình trệ, nhưng chưa phải là điều tồi tệ nhất.
Sự năng động của Mỹ và Trung Quốc (và Ấn Độ), theo thông lệ, tốt hơn một chút so với ở Liên minh châu Âu (EU) và các thị trường mới nổi. Nga, vốn đang chịu các lệnh trừng phạt, cũng không quá đứng ngoài bối cảnh chung.Cuộc khủng hoảng nghiêm trọng năm 2020 ở Italy, Tây Ban Nha và Pháp đến như một bất ngờ, nhưng điều này là do tác động của đại dịch đối với ngành du lịch. Suy thoái kinh tế đang diễn ra ở Anh có vẻ mờ nhạt hơn so với tình hình kinh tế ở Đức, nơi đã phải gánh chịu nhiều chi phí năng lượng khác nhau.
Tất nhiên, EU nói chung đã trả quá cao cho việc nhập khẩu khí đốt. Tổng chi phí nhập khẩu khí đốt vào EU (không điều chỉnh khối lượng) lên tới 31 tỷ USD năm 2020, 80,5 tỷ USD năm 2021 và 290 tỷ USD năm 2022. Vì vậy, mặc dù không xảy ra khủng hoảng nguồn cung, nhưng giá phải trả quá đắt đỏ.
Nguy cơ khủng hoảngCó những người khác bị ảnh hưởng bởi tình hình hiện tại - các nước đang phát triển nghèo nhất, một số tầng lớp xã hội ở các quốc gia khác nhau. Ngoài ra, việc vận chuyển khí đốt hóa lỏng khác với việc vận chuyển bằng đường ống ở chỗ khí đốt hoá lỏng làm tăng 25% lượng khí thải nhà kính cho cùng một khối lượng.Rõ ràng, đã đến lúc phải thừa nhận chính sách khí hậu vào thời điểm này là "nạn nhân" phụ của tình hình bất ổn địa chính trị trong giai đoạn 2020-2022. Và khó có khả năng duy trì mức nóng lên toàn cầu trong phạm vi 1,5°С vào năm 2100 - đã đến lúc làm quen với ý tưởng +2°C và điều chỉnh cho phù hợp với các đặc điểm cụ thể của lục địa và quốc gia.
Các Mục tiêu Phát triển Bền vững, với những hy vọng cụ thể là hướng tới một thế giới hợp lý hơn, rõ ràng cũng sẽ phải điều chỉnh và nêm tìm kiếm các cách thức phát triển thế giới khác thực tế hơn.
Liệu sẽ có một cuộc khủng hoảng toàn cầu vào năm 2023 hay không, điều này vẫn chưa chắc chắn. Tuy nhiên, IMF, Fed, ECB, chính phủ và các thể chế tài chính của các quốc gia hàng đầu đang nỗ lực hết sức để tránh điều đó.Cho đến nay, hệ thống ngân hàng chưa xuất hiện cú sốc tiêu cực mạnh (như vụ phá sản của Lehman Brothers năm 2008), tức là nợ nần chồng chất và mất cân đối chưa tạo ra “ngòi nổ”. Đây là một tin tốt, nhưng các yếu tố kích hoạt khủng hoảng, về cơ bản là không thể đoán trước được...
Kinh nghiệm đối phó với các cuộc khủng hoảng và đặc biệt là với lạm phát đình trệ ở các nước phát triển, khi lạm phát cao bén rễ trở lại, nói chung, đã là khá lâu trước đây. Dự báo cho 2023-2024 đưa ra vào tháng Tư là tích cực, suy thoái trên quy mô toàn cầu không lớn, nhưng tăng trưởng âm ở Mỹ và EU trong ít nhất một vài quý.Đặt giả thuyết rằng các cơ quan quản lý tài chính trên khắp thế giới đang thử nghiệm, hành động "theo tình huống, phản ứng, trực quan và tương tác".Việc các cơ quan quản lý trên toàn thế giới rơi vào tình thế khó khăn như vậy cho thấy những hạn chế cả về kiến thức của các nhà khoa học về cơ chế của nền kinh tế thế giới và khả năng quản lý nền kinh tế đó, đặc biệt là trong tình trạng tê liệt trong việc phối hợp hành động của các cơ quan quản lý các quốc gia trên thế giới.
Các quá trình phát triển của thế giới và quá trình của chu kỳ kinh doanh có thể trở nên khó quản lý hơn nhiều dưới những cú sốc mạnh liên tiếp không đồng nhất so với vài năm trước./.
Tin liên quan
-
DN cần biết
Doanh nghiệp Mỹ, châu Âu cảnh báo về đà phục hồi chậm của kinh tế Trung Quốc
12:48' - 08/05/2023
Các công ty của Mỹ và châu Âu cho rằng lợi nhuận của họ đáng thất vọng là do tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc chậm hơn dự kiến, dù nước này mở cửa trở lại đã đưa đến dự báo tăng trưởng lạc quan.
-
Kinh tế Thế giới
Xung đột Ukraine tác động tiêu cực tới kinh tế thế giới
20:20' - 10/02/2023
Xung đột tại Ukraine gần một năm trước đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến sự thịnh vượng của thế giới.
-
Ý kiến và Bình luận
IMF dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ chạm đáy trong năm nay
07:41' - 18/01/2023
Tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ chạm đáy, ở mức 2,7% trong năm 2023, rồi phục hồi vào năm tới.
-
Phân tích - Dự báo
2023 sẽ là một năm khó khăn đối với kinh tế thế giới?
06:30' - 16/01/2023
Bước sang năm 2023, kinh tế thế giới vẫn tồn tại nhiều bất trắc với xu hướng suy giảm khó đảo ngược. Điều xác định duy nhất là khắp nơi dỡ bỏ kiểm soát phòng COVID-19 và các biện pháp kích thích.
Tin cùng chuyên mục
-
Phân tích - Dự báo
Nga đánh giá về giải pháp hòa bình với Ukraine
12:46' - 22/11/2025
Theo hãng tin TASS, tại cuộc họp Hội đồng An ninh Nga ngày 21/11, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã có cuộc trao đổi kéo dài 6 phút về kế hoạch hòa bình 28 điểm mới được Mỹ đề xuất.
-
Phân tích - Dự báo
Cơ hội khôi phục lòng tin
15:08' - 21/11/2025
COP30 tại Brazil mở ra kỳ vọng mới cho hành động khí hậu, nhưng khoảng trống niềm tin giữa các nước phát triển và đang phát triển đang trở thành thách thức lớn nhất cản trở tiến trình thực thi.
-
Phân tích - Dự báo
Google cảnh báo nguy cơ “bong bóng” ảnh hưởng mọi doanh nghiệp
20:40' - 18/11/2025
Giám đốc điều hành (CEO) của tập đoàn Google, Sundar Pichai, cảnh báo rằng không một doanh nghiệp nào miễn nhiễm nếu vỡ “bong bóng AI”.
-
Phân tích - Dự báo
Hội nhập sâu, nội lực mạnh - Bài cuối: Kỷ nguyên mới của toàn cầu hóa
08:55' - 18/11/2025
Từ chuỗi cung ứng, dòng đầu tư đến các hiệp định thương mại, tất cả đang chuyển dịch sang trạng thái “hội nhập chọn lọc” – nơi an ninh và tính tự chủ trở thành trung tâm của hợp tác kinh tế quốc tế.
-
Phân tích - Dự báo
Bảo vệ môi trường – nhiệm vụ trung tâm phát triển bền vững của Việt Nam
16:44' - 12/11/2025
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu bước phát triển mới về tư duy phát triển khi khẳng định: “Bảo vệ môi trường cùng với phát triển kinh tế xã hội là nhiệm vụ trung tâm”.
-
Phân tích - Dự báo
IEA: Năng lượng tái tạo mở rộng nhanh hơn nhiên liệu hóa thạch
16:02' - 12/11/2025
Theo IEA, năng lượng tái tạo đang mở rộng nhanh hơn nhiều so với nhiên liệu hóa thạch trên toàn cầu, bất chấp những thay đổi chính sách tại Mỹ, và nhu cầu dầu mỏ có thể đạt đỉnh vào khoảng năm 2030.
-
Phân tích - Dự báo
Kinh tế Mỹ có nguy cơ tăng trưởng âm nếu chính phủ vẫn đóng cửa
12:27' - 10/11/2025
Các cố vấn hàng đầu của chính quyền Tổng thống Donald Trump cảnh báo nền kinh tế Mỹ có thể rơi vào tăng trưởng âm trong quý IV/2025 nếu tình trạng đóng cửa Chính phủ liên bang tiếp tục kéo dài.
-
Phân tích - Dự báo
Thị trường dầu thế giới có thể sẽ dư cung vào năm 2026
10:41' - 08/11/2025
Thị trường dầu mỏ thế giới có thể sẽ dư cung vào năm 2026, do sản lượng dầu của Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đối tác, còn gọi là OPEC+, gia tăng và nhu cầu dầu thế giới sụt giảm.
-
Phân tích - Dự báo
Chuyên gia công nghệ hạ thấp lo ngại về bong bóng AI
09:33' - 08/11/2025
Các chuyên gia Hàn Quốc đã hạ thấp mối lo ngại về bong bóng AI và cho rằng những lo ngại về bong bóng AI xuất phát từ việc chưa thực sự hiểu rõ về hiện tại công nghệ đang phát triển đến mức nào.

Thế giới đang đóng băng trước nguy cơ khủng hoảng. Ảnh: THX/TTXVN