Tổng thống Trump có lặp lại sai lầm hồi năm 1930 đối với kinh tế Mỹ?

06:30' - 12/06/2018
BNEWS Việc Mỹ áp biểu thuế quan mới nhắm vào mặt hàng nhôm và thép nhập khẩu đã gợi nhớ lại đạo luật Hawley-Smoot năm 1930, đạo luật đã châm ngòi cho cuộc chiến thương mại lớn trên thế giới.
Tổng thống Mỹ Donald Trump phát biểu tại Washington ngày 26/9. Ảnh: AFP/TTXVN

Trong bài viết “Chiến tranh thương mại: Sự thảm bại của các biện pháp bảo hộ mậu dịch trước đây của Mỹ” đăng trên website của mình, đài truyền hình France 24 nhắc lại cuộc chiến thương mại đã nổ ra vào năm 1930.

“Chúng tôi tin rằng việc thông qua các biện pháp bảo hộ mậu dịch sẽ là một sai lầm. Các biện pháp này có thể dẫn đến việc tăng giá đối với người tiêu dùng Mỹ và làm giảm mức sống của người dân”. Chính bằng những lời lẽ này, một tập thể gồm 1.028 nhà kinh tế đã bắt đầu lá thư ngỏ gửi đến Tổng thống Mỹ Herbert Hoover năm 1930 nhằm cảnh báo ông về việc áp đặt thuế quan đánh vào nhiều loại sản phẩm.

Giờ đây, 88 năm sau, khoảng 12 kinh tế gia Mỹ đã dùng lại chính bức thư này, chỉ khác nhau vài từ, nhằm báo động Tổng thống Donald Trump về những mối nguy hiểm trong việc đánh thuế thép và nhôm nhập khẩu. Đối với họ, nước Mỹ ngày nay có nguy cơ chịu cùng số phận như năm 1930 chỉ vì các loại thuế quan.

Trong cả hai trường hợp, bức thư ngỏ đã bị chính quyền phớt lờ bởi vì Washington đã quyết định áp thuế đối với châu Âu, Canada và Mexico ngay từ ngày 1/6. Nếu như năm 2018 này, không ai có thể dự đoán được lối thoát nào cho cuộc chiến thương mại tới đây, thì lịch sử đã cho chúng ta thấy hậu quả của các biện pháp bảo hộ mậu dịch năm 1930.

Các biện pháp đó đã gây tổn hại nghiêm trọng cho nền kinh tế Mỹ và đó là một trong những lý do mà Mỹ đã “làm mọi cách để đề cao tự do mậu dịch sau Đệ nhị Thế chiến”, theo như nhận định của Marc-William Palen, chuyên gia kinh tế trường đại học Exeter, Anh, trong một bài viết đăng trên trang mạng của đài truyền hình Mỹ NBC.

Vào mùa Xuân năm 1929, kinh tế Mỹ dường như phát triển tốt. Tỷ lệ thất nghiệp thấp, tăng trưởng cao như mong đợi và công nghiệp phát triển. Trong bối cảnh đó, một lĩnh vực duy nhất có những dấu hiệu suy yếu đó là nông nghiệp. 

Herbert Hoover, vừa đắc cử Tổng thống, đã dùng lại một ý tưởng mà giới vận động hành lang của các nhà sản xuất nông nghiệp đưa ra đó là các chủ trang trại Mỹ gặp khó khăn do cạnh tranh. Ông đã đề nghị đánh thuế các mặt hàng nông sản nhập khẩu.

Thế nhưng Quốc hội lưỡng viện Mỹ đã nắm lấy chủ đề này và quyết định mở rộng phạm vi đánh thuế, vượt ra ngoài lĩnh vực nông nghiệp. Dưới sự thúc đẩy của hai nghị sĩ đảng Cộng hòa là Willis Hawley và Reed Smoot, cả Thượng và Hạ viện đều thông qua một danh sách gần 900 mặt hàng phải chịu thuế (trong đó có cả cá vàng).

Sau nhiều tháng bàn thảo, đạo luật được gọi là Hawley-Smoot đã được thông qua đầu năm 1930 vào lúc cuộc khủng hoảng chứng khoán năm 1929 bắt đầu có những tác động đầu tiên đối với nền kinh tế Mỹ. Dự báo của các kinh tế gia đã được nhanh chóng kiểm chứng khi trước đó trong bức thư cảnh báo ông Herbert Hoover, họ đã đề cập đến những tác động tai hại của chính sách bảo hộ này.

Nông nghiệp Mỹ không được hưởng lợi từ việc nâng thuế nhập khẩu và các đối tác thương mại đã gia tăng các biện pháp trả đũa. Cơn sốt bảo hộ mậu dịch mà thế giới hứng chịu đã dẫn đến sự sụt giảm thê thảm thương mại toàn cầu, trao đổi thương mại quốc tế giảm hơn 40%.

Tác động của đạo luật Hawley-Smoot vẫn còn gây tranh luận cho đến ngày nay. Đối với một số người, đạo luật làm tăng giá sản phẩm nhập khẩu, làm cho cuộc khủng hoảng năm 1929 thêm trầm trọng. Theo một số người khác thì cũng như nạn đầu cơ chứng khoán, chính sách bảo hộ này là một trong những nguyên nhân chính của cuộc Đại suy thoái.

Sau cùng, một số sử gia thậm chí còn đánh giá rằng đạo luật này đã góp phần làm trỗi dậy chủ nghĩa phát xít ở Đức. 

France 24 trích dẫn nhận định trên tờ Financial Times cho rằng qua việc tạo thuận lợi cho chủ nghĩa biệt lập và làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng hơn, các biện pháp bảo hộ này đã làm “gia tăng thêm tình trạng đói nghèo trên thế giới, và tình trạng này là một nguyên nhân quan trọng gây ra Đệ nhị Thế chiến”.

Quan điểm này cũng được Tổng thống Pháp Emmanuel Macron chia sẻ. Ông đã dẫn lại phát biểu của tướng De Gaulle để lên án quyết định của ông Donald Trump áp dụng “tư tưởng dân tộc chủ nghĩa về kinh tế. Và tư tưởng dân tộc chủ nghĩa dẫn đến chiến tranh. Đó chính là điều đã xẩy ra trong năm 1930”.

Liệu tình hình hồi đó có thể so sánh được với tình hình hiện nay hay không, như nhiều chuyên gia kinh tế nhắc đến, những người đã ký phiên bản mới của bức thư năm 1930? Điểm giống nhau chủ yếu là những động cơ đã thúc đẩy Herbert Hoover và Donald Trump thông qua các biểu thuế quan này. 

Theo tờ Wall Street Journal, cả hai vị Tổng thống“ đã hành động trước hết vì những tính toán chính trị mà không thật sự suy tính đến lợi ích kinh tế của những biện pháp đó”.

Nhật báo Mỹ nhắc lại rằng ông Herbert Hoover đã tìm cách thỏa mãn giới vận động hành lang ngành nông nghiệp và để có được sự ủng hộ của các nghị sĩ bảo thủ tại Quốc hội, còn ông Trump thì nhắm đến việc làm hài lòng cử tri Mỹ ở những bang công nghiệp phía Bắc có truyền thống ủng hộ đảng Dân chủ, những người có thể ngả theo phe Cộng hòa trong kỳ bầu cử giữa nhiệm kỳ tháng 11/2018.

Trong cả hai trường hợp, Mỹ luôn là quốc gia khởi chiến. Các biện pháp bảo hộ mậu dịch của Mỹ đã làm dấy lên làn sóng lên án mạnh mẽ từ các đối tác thương mại, và những đối tác này sẵn sàng áp đặt thuế quan của họ đối với các sản phẩm thuộc các bang phía Bắc Mỹ.

Tuy vậy, cũng có không ít khác biệt đáng kể. Tình hình kinh tế Mỹ hiện nay không giống như cuối thập niên 1920; vào lúc đó, đầu cơ chứng khoán đã lên đến đỉnh điểm. Một cuộc chiến thương mại có thể sẽ không có cùng tác động làm gia tăng cuộc khủng hoảng mà đạo luật Hawley-Smoot gây ra. 

Ngược lại, thương mại quốc tế đã phát triển mạnh mẽ từ năm 1930. Do vậy, một sự ngưng trệ trong trao đổi thế giới do thuế quan gây ra có thể sẽ tác động mạnh hơn vào tăng trưởng trên thế giới.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục