Viettel: Để khoa học và công nghệ phát triển thần kỳ

20:24' - 15/04/2017
BNEWS Câu chuyện đầu tư hạ tầng 4G cũng là minh chứng cho sự dám nghĩ, dám làm. Thực tế, Việt Nam phải mất 20 năm để dựng nên mạng 2G rộng khắp toàn quốc và mất 10 năm để dựng nên mạng 3G hiện nay.
 Khách hàng đến giao dịch tại Trung tâm kinh doanh Viettel Hà Giang. Ảnh: Minh Quyết – TTXVN

Coi Viện nghiên cứu như một doanh nghiệp, chỉ vay chứ không đầu tư, mạnh dạn đặt các bài toán khó để tự gây áp lực tìm người giỏi... là những cách nghĩ khác, làm khác của Tập đoàn Viettel trong phát triển khoa học và công nghệ đã hình thành "Tinh thần Viettel - Cách làm Viettel" riêng biệt và đạt được bước phát triển mạnh mẽ như hiện nay.

Những vướng mắc của khoa học và công nghệ nói chung và địa phương nói riêng được Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel Nguyễn Mạnh Hùng chia sẻ qua thực tiễn đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Tập đoàn tại Tọa đàm với Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh cùng 63 lãnh đạo các Sở Khoa học và Công nghệ trong toàn quốc mới diễn ra.

Cho vay chứ không đầu tư

Về vấn đề chuyển giao công nghệ, ông Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng: Tri thức nhân loại là vô tận và hoàn toàn có thể sử dụng nhờ thế giới phẳng. Thực tế từ nhiều năm làm nghiên cứu sản xuất, Viettel nhận ra rằng, không ai muốn chuyển giao công nghệ cho mình.

Viettel còn nhận ra một điều, công nghệ có được là do quá trình lao động nên việc đầu tiên là phải tự nghiên cứu, nắm vững được 70 – 80% công nghệ và quá trình này thường không mất nhiều thời gian.

Phần còn lại là những vấn đề cốt lõi và khó. Nhưng nếu đã nắm vững công nghệ thì việc tìm ra vấn đề cốt lõi có khi lại chỉ thông qua một câu nói, một tham số thông qua việc trao đổi với các chuyên gia. Đó chính là con đường để Viettel rất tự tin bước vào nghiên cứu khoa học.

Về vấn đề phân bổ và sử dụng nguồn ngân sách cho khoa học và công nghệ, câu chuyện thường trực của người làm quản lý khoa học và công nghệ trung ương và địa phương được Bộ trưởng Chu Ngọc Anh đặt câu hỏi cho Tổng Giám đốc Nguyễn Mạnh Hùng qua kinh nghiệm sử dụng Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ của Tập đoàn.

Thẳng thắn bày tỏ quan điểm, ông Hùng cho biết: Viettel không có khái niệm đầu tư mà là cho vay. Các Viện nghiên cứu của Viettel bản chất là công ty. Viettel không từ chối bất cứ đề xuất nào cho nghiên cứu mà chỉ đưa ra điều kiện, sau 3 năm phải thu hồi vốn nên bất cứ chủ nhiệm đề tài nào cũng phải cân nhắc rất kỹ đề tài và đưa ra đề xuất. Từ cách làm này, sau 5 năm bước chân vào nghiên cứu, Viettel đã thu về được 4.000 tỉ đồng tiền lãi.

Đặt hàng các Viện nghiên cứu thông qua Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ của Tập đoàn được các địa phương đánh giá cao, ông Hùng cho biết: Chính từ đề xuất trích lập 10% lợi nhuận trước thuế cho hoạt động nghiên cứu mà Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất đã tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp có được nguồn vốn cho nghiên cứu khoa học.

Đây thực sự là cứu cánh cho Viettel trong việc cấp tiền cho nghiên cứu. Hiện tại, với thị trường sẵn có từ 12 quốc gia với tổng số khách hàng lên đến hơn 300 triệu người thì nhu cầu về các sản phẩm là rất lớn. Hiện tại, nguồn nhân lực cho hoạt động nghiên cứu của Viettel không đáp ứng được nhu cầu thực tế.

Để giải quyết vấn đề này, Viettel đã sử dụng chính sách đặt hàng các Viện nghiên cứu. Đây là mô hình của Boeing đang triển khai với hơn 10.000 công ty làm thuê cho họ và Boeing chỉ làm thị trường. Theo mô hình này thì Viettel có nhiều cơ hội cho các Viện nghiên cứu của Việt Nam và không bị bỏ lỡ nhiều nguồn lực tốt của xã hội.

Từ kinh nghiệm của Viettel, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cũng gợi ý các Sở Khoa học và Công nghệ nên tận dụng cơ hội để tìm kiếm nguồn vốn cho khoa học và công nghệ - bài toán vốn “đau đầu” của nhiều địa phương.

Xử lý kỹ thuật tại phòng Lab test thiết bị (Viettel Hà Giang). Ảnh: Minh Quyết – TTXVN

Dám nghĩ, dám làm

Bộ trưởng Chu Ngọc Anh đánh giá: 10 năm qua, Viettel có bước phát triển thần kỳ nhưng thần kỳ hơn là tư duy và cách tiếp cận phát triển thông qua khoa học và công nghệ. Nhìn lại 10 năm trước, Viettel còn khó so sánh với nhiều doanh nghiệp khác trong nước, nhưng hiện giờ Viettel đã vươn lên là doanh nghiệp hàng đầu của Việt Nam.

Vừa qua, việc đầu tư thần tốc vào phát triển hạ tầng hệ thống 4G chỉ trong 6 tháng cho thấy sức mạnh phát triển của Tập đoàn Viettel.

Chia sẻ về cách tư duy, tiếp cận, chuyển giao công nghệ và phát triển dựa trên khoa học và công nghệ của Viettel, ông Nguyễn Mạnh Hùng cho biết: đó chính là phải mạnh dạn, dám nghĩ khác, làm khác.

Câu chuyện đầu tư hạ tầng 4G cũng là minh chứng cho sự dám nghĩ, dám làm. Thực tế, Việt Nam phải mất 20 năm để dựng nên mạng 2G rộng khắp toàn quốc và mất 10 năm để dựng nên mạng 3G hiện nay.

Nhưng với 4G, Viettel chỉ mất 6 tháng dựng mạng rộng tương đương với mạng 2G. Việc dựng mạng 4G nhanh bởi Việt Nam là một trong những nước cuối cùng cấp phép triển khai mạng 4G, nếu cũng mất 10 – 20 năm thì chắc chắn Việt Nam sẽ còn tụt lùi rất xa nên không có cách nào khác là phải dám làm và đặt mục tiêu cho mình.

Đây cũng không phải là lần đầu tiên Viettel đặt mục tiêu cao cho mình bởi trước đó, khi triển khai mạng 2G, năm 2004, mật độ người dùng di động của Việt Nam khi ấy mới chỉ có 4% và Viettel đã đặt mục tiêu mỗi người dân Việt Nam phải có một chiếc điện thoại di động. Và sau 4 năm, mật độ người dùng di động ở Việt Nam đã đạt 100%, đưa Việt Nam là 1 trong 10 nước có tốc độ phát triển viễn thông nhanh nhất, có hạ tầng viễn thông tốt nhất trên thế giới.

Đến nay, Viettel tự hào đã xây dựng hệ thống 4G phủ sóng cả nước với chất lượng tốt nhất thế giới. Câu chuyện 4G cho thấy vai trò khoa học và công nghệ đối với việc phát triển hạ tầng để làm nền tảng cho các dịch vụ tiện ích xã hội khi mà bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 đang được nhắc đến như một lẽ phát triển tất yếu.

Từ những kinh nghiệm thực tế của Viettel đã có những gợi mở rất hữu ích cho những người làm công tác quản lý khoa học.

Bộ trưởng Chu Ngọc Anh khẳng định, với vai trò dẫn dắt của Tập đoàn công nghiệp quốc phòng hàng đầu, Viettel cũng như nhiều tập đoàn kinh tế khác đã và đang chú trọng đến hoạt động khoa học và công nghệ, đây là tín hiệu đáng mừng góp phần thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ trong thời gian tới./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục