Vùng Tây Bắc vượt khó để tái cơ cấu ngành nông nghiệp

11:43' - 05/01/2018
BNEWS Vượt lên những khó khăn thách thức đó, ngành nông nghiệp vùng Tây Bắc đang tái cơ cấu lại sản xuất từng bước đem lại hiệu quả tích cực trong sản xuất cho người dân.
Vùng Tây Bắc vượt khó để tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Ảnh: TTXVN

Tây Bắc có tổng diện tích vào khoảng 10 triệu ha, chiếm 30% diện tích tự nhiên của cả nước với 12 triệu dân chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Cùng với đó 80% đồi núi vùng Tây Bắc có độ dốc rất lớn; hạ tầng kém phát triển, dân trí, nguồn nhân lực thấp chính là những khó khăn trong phát triển kinh tế của toàn vùng, trong đó; có kinh tế nông lâm nghiệp.

Ông Hoàng Xuân Long, Ủy viên chuyên trách kiêm Vụ trưởng Vụ Kinh tế Ban Chỉ đạo Tây Bắc cho biết, đề án "Tái cơ cấu ngành nông nghiệp vùng Tây Bắc theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững" của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã góp phần thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020 của cả nước.
Dựa theo định hướng này, lần lượt các tiểu ngành trong nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, thủy lợi đều xây dựng các Kế hoạch hành động tái cơ cấu tiểu ngành từ năm 2014 đến năm 2020. Cùng với đó các tỉnh trong vùng cũng đã lập và thực hiện các đề án theo chủ trương này.
Đơn cử như Đề án tái cơ cấu nông nghiệp của tỉnh Yên Bái giai đoạn 2014 - 2020 đã đề ra mục tiêu theo hướng nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh thông qua tăng năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh; nâng cao thu nhập và mức sống của cư dân nông thôn, đảm bảo an ninh lương thực, giảm tỷ lệ đói nghèo, ổn định chính trị- xã hội; quản lý tài nguyên thiên nhiên, giảm tác động tiêu cực đối với môi trường, khai thác, sử dụng hiệu quả các lợi ích về môi trường.
Hay Đề án của tỉnh Sơn La được ban hành năm 2014, tập trung vào việc phát triển các cây công nghiệp như: mía, cà phê, sắn; cây ăn quả ôn đới; rau an toàn; chăn nuôi đại gia súc; đề án phát triển nông nghiệp của tỉnh Điện Biên đến năm 2020 định hướng đến 2025 tập trung vào quản lý, khai thác rừng bền vững; cải thiện thủy lợi; thúc đẩy sản xuất đại gia súc; hình thành liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đối với một số mặt hàng chủ lực như lúa, gạo, cà phê, chè, cao su...
Thực tế cho thấy sau khi thực tái cơ cấu ngành nông nghiệp của mỗi tỉnh trong vùng, mỗi địa phương của tỉnh đã có cách làm phù hợp với tiềm năng thế mạnh của mối tỉnh, mỗi địa phương để đem lại hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp cho người dân.
Theo đánh giá của ông Hoàng Xuân Long, việc thực hiện chính sách tái cơ cấu, nông nghiệp Tây Bắc đã đạt được một số kết quả nhất định, giúp hình thành nhiều vùng liên kết sản xuất hàng hóa chuyên canh lớn gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm như: vùng mía đường 80.000 ha (Hòa Bình, Tuyên Quang, Tây Thanh Hóa, Tây Nghệ An); vùng cây ăn quả trên 80.000 ha (Sơn La, Tuyên Quang Yên Bái, Hòa Bình, Bắc Kạn, Lạng Sơn); vùng chè 76.000 ha (Hà Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang); vùng cà phê 15 nghìn ha (Sơn La, Điện Biên); vùng cây cao su 63 nghìn ha (ở các tỉnh phía Tây); vùng rau, hoa, cây dược liệu ôn đới chất lượng cao (Sa Pa, Mộc Châu, Hà Giang); vùng rừng nguyên liệu giấy (Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Yên Bái).

Ruộng bậc thang ở Sa Pa (Lào Cai). Ảnh: Nguyễn Thủy/TTXVN

Ngoài ra, một số mô hình chuỗi giá trị thành công cũng đang tiếp tục được mở rộng như: chuỗi Rau an toàn Mộc châu; Chuỗi giá trị Mận Mộc châu (Sơn La), Bắc Hà (Lào Cai)… Một số sản phẩm đặc sản địa phương cũng đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý thành công như: Cam Cao phong (Hòa Bình), Mật ong bạc hà Mèo Vạc (Hà Giang), Hồng không hạt (Bắc Kạn), Xoài Yên Châu (Sơn La)…
Các mô hình này đang khẳng định được vị thế của mình trong bức tranh tái cơ cấu nông nghiệp toàn vùng, dần thay thể một số mô hình sản xuất tự phát thiếu bền vững về cả sinh thái lẫn thị trường. Qua đó, bộ mặt nông thôn miền núi Tây Bắc có nhiều đổi mới, kết cấu hạ tầng được cải thiện, chất lượng đời sống người dân dần được nâng lên.
Tuy nhiên, tốc độ phát triển kinh tế nông lâm nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng và chưa tạo được bước đột phá. Một trong những nguyên nhân chủ đạo của thực trạng này là do Tây Bắc luôn phải đối mặt với những biến đổi bất thường của thiên tai, khí hậu với tần suất và cường độ ngày càng tăng các hiện tượng cực đoan như: sạt lở, lũ lụt, mưa rét, hạn hán, sương muối…
Mặc dù sở hữu các tiểu vùng sinh thái nông nghiệp với tính đa dạng sinh học cao nhưng nhiều khu vực tại Tây Bắc lại đang bị xói mòn nghiêm trọng, diện tích đất có thể canh tác nông nghiệp tương đối ít và manh mún, chủ yếu canh tác trên đất dốc, phương pháp canh tác lạc hậu, thiếu bền vững nên hiệu suất không cao, nhiều sản phẩm nông nghiệp đặc trưng của địa phương chưa kết nối được với thị trường và chưa gây dựng được thương hiệu.

Việc ứng dụng khoa học công nghệ cao cũng còn khá hạn chế, nhất là trong sản xuất nông nghiệp theo quy trình VietGap.
Các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa nhìn chung quy mô còn nhỏ, phân tán. Các hình thức tổ chức, liên kết trong sản xuất chưa phát triển, mới ở bước manh nha. Đặc biệt, số doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp rất khiêm tốn, nhất là các hoạt động liên quan đến chế biến nông sản hay ứng dụng khoa học công nghệ trong chăn nuôi, trồng trọt.
Riêng với lĩnh vực chăn nuôi, quy mô cũng còn khá nhỏ lẻ, nặng về tập quán thả rông, chưa chủ động được thức ăn và nguồn giống. Mặc dù chăn nuôi đại gia súc (như trâu và bò) là thế mạnh nhưng phát triển chưa bền vững, tỷ lệ trâu, bò chết rét, chết dịch hàng năm vẫn khá nhiều.

Công tác quản lý, bảo vệ rừng ở một số địa phương cũng còn nhiều yếu kém, chất lượng rừng nhìn chung còn thấp, người làm rừng chưa thực sự sống được nhờ nghề rừng. Lĩnh vực thủy sản cũng vẫn sử dụng giống và nuôi theo phương pháp truyền thống là chủ yếu nên hiệu suất không cao.
Để tạo bước đột phá trong tái cơ cấu nông nghiệp vùng Tây Bắc, bên cạnh định hướng phát triển chung thì mỗi tỉnh trong vùng cũng đều lựa chọn cho mình hướng đi riêng dựa trên những thế mạnh, lợi thế của từng địa phương.
Ông Trần Thế Hùng, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Yên Bái khẳng định, Yên Bái đã lựa chọn, ưu tiên các loại cây, con có thế mạnh, đưa khoa học công nghệ cao vào ứng dụng, sản xuất theo mô hình HTX, liên doanh - liên kết “bốn nhà”, lấy doanh nghiệp làm mũi nhọn tạo ra sản phẩm năng suất, chất lượng cao theo chuỗi nông sản sạch. "Đó là hướng đi trong tái cơ cấu nông nghiệp của tỉnh miền núi Yên Bái", ông Hùng nói.
Hiện nay, sản xuất nông nghiệp của Yên Bái đã thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng, tập trung đầu tư thâm canh, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Yên Bái đã hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung như: vùng lúa chất lượng, vùng chè, vùng cây ăn quả, vùng quế, vùng tre măng Bát độ, vùng cây nguyên liệu giấy, vùng phát triển nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm…
Giá trị sản xuất nông nghiệp chuyển dịch tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng lâm nghiệp, thủy sản. Đến thời điểm này cái được lớn nhất của Yên Bái bước đầu là đã làm thay đổi về quy mô sản xuất, hình thành vùng chuyên canh hàng hóa theo chuỗi sản phẩm. Hiện nay, một số vùng sản xuất tập trung cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông, lâm sản và sản xuất các mặt hàng xuất khẩu đã được hình thành.
Ông Hà Văn Um, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Lai Châu cho biết, việc thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Lai Châu đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 được thực hiện đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, phát triển lâm nghiệp. Việc đầu tiên trong thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, các cấp, các ngành đã tập trung chỉ đạo người dân trên địa bàn toàn tỉnh, đưa các giống lúa, ngô có năng suất chất lượng vào sản xuất.
Đặc biệt nhất là trong phát triển cây chè, xứng đáng là sản phẩm hàng hóa chủ lực của tỉnh Lai Châu. Ngành chè được tái cơ cấu theo hướng: gắn nông dân với doanh nghiệp thông qua hợp đồng, hợp tác kinh doanh theo chuỗi giá trị sản phẩm nên đã hạn chế được trình trạng tranh mua, tranh bán.

Hiện nay, các công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã chế biến chè được phân vùng nguyên liệu và tổ chức ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm chè búp tươi với bà con nông dân được trên 2.400 ha. Chè đã trở thành sản phẩm hàng hóa chủ lực của tỉnh, chất lượng, mẫu mã sản phẩm ngày càng đa dạng và phong phú, nhiều sản phẩm chè của tỉnh đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
Đến nay, toàn tỉnh Lai Châu có trên 4.500 ha chè, sản lượng chè búp tươi đạt trên 25.000 tấn/năm. Cùng với đó tỉnh Lai Châu bước đầu đã thử nghiệm và triển khai có hiệu quả một số mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hoá tạo tiền đề để đánh giá và nhân rộng trong giai đoạn tới như: thử nghiệm trồng 170 ha cây mắc ca và phát triển vùng trồng cây ăn quả ôn đới tại huyện Tam Đường; vùng bơ tại các huyện Tân Uyên, Tam Đường và thành phố Lai Châu; vùng cây ăn quả nhiệt đới (xoài, dừa, vải, nhãn…) tại huyện Nậm Nhùn; phát triển cây sơn tra thông qua việc lồng ghép bố trí trong cơ cấu giống của các dự án trồng rừng.../.

>>>Tiếp tục tạo điều kiện cho vùng Tây Bắc phát triển một cách bền vững, toàn diện

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục