WB: Đổi mới giáo dục đại học là chìa khóa để nâng cao năng suất
Tại họp báo với chủ đề "Giáo dục để tăng trưởng" công bố Báo cáo cập nhật tháng 8/2022 về tình hình kinh tế Việt Nam do Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam tổ chức chiều ngày 8/8 tại Hà Nội, bà Carolyn Turk, Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam nhấn mạnh, để duy trì tăng trưởng kinh tế với tốc độ mong muốn, Việt Nam cần tăng năng suất ở mức từ 2 - 3% mỗi năm.
Từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy, muốn tăng năng suất lao động, chỉ có thể đạt được bằng cách đầu tư cho hệ thống giáo dục - một phần quan trọng của gói các đầu tư và cải cách cần thiết. Lực lượng lao động có năng lực cạnh tranh sẽ đem lại hiệu suất là yếu tố Việt Nam rất cần trong dài hạn.
Báo cáo ghi nhận rằng, việc đổi mới hệ thống giáo dục đại học là chìa khóa để nâng cao năng suất của Việt Nam và giúp hoàn thành mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2035 và quốc gia thu nhập cao vào năm 2045.
Để đạt tỷ lệ nhập học đại học bình quân tương đương ở các nền kinh tế thu nhập trung bình cao, Việt Nam cần tuyển sinh 3,8 triệu sinh viên vào các cơ sở giáo dục đại học, gần gấp đôi so với chỉ tiêu tuyển sinh năm 2019.
Bình luận về những thành tựu của Việt Nam về khả năng tiếp cận, tỷ lệ nhập học và kết quả học tập giáo dục sau phổ thông, ông Michael Drabble, Chuyên gia kinh tế giáo dục cao cấp WB nhận định, trong 25 năm qua, Việt Nam đã mở rộng khả năng tiếp cận giáo dục, hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và nâng cao tỷ lệ nhập học giáo dục trung học cơ sở, trung học phổ thông và giáo dục sau phổ thông.
Trẻ em ở Việt Nam ngày nay có nhiều cơ hội tốt nghiệp giáo dục tiểu học với khả năng đọc hiểu và làm toán thành thạo.
Thành công đó của Việt Nam có được là nhờ Chính phủ chi tiêu khá cao cho giáo dục, tập trung vào yếu tố công bằng, thu hút và hỗ trợ giáo viên có trình độ, đầu tư vào giáo dục tiền tiểu học, áp dụng chiến lược các hình thức đánh giá, song song với những đổi mới qua các quyết định dựa trên bằng chứng.
Sau khi điều chỉnh về thời lượng học tập, số năm học ở trường bình quân của Việt Nam là 10,2 năm, đứng thứ hai sau Singapore trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Việt Nam cũng có chỉ số vốn nhân lực (HCI) cao; trong đó, thể hiện vốn nhân lực tương quan mà một đứa trẻ sinh ra hiện nay có thể đạt được vào năm 18 tuổi.
Chỉ số này còn thể hiện năng suất lao động của thế hệ tiếp theo so với mốc chuẩn chung về giáo dục phổ thông và sức khỏe toàn diện.
Tuy nhiên, thời gian tới, Việt Nam cần cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục sau phổ thông và kết quả của hệ thống giáo dục sau phổ thông phải tương xứng với các quốc gia đi trước trong khu vực Đông Á. Đến năm 2019, Việt Nam có khoảng 1,7% dân số được học đại học (tương đương 1,67 triệu sinh viên).
Trong khi đó Malaysia có 4% dân số (khoảng 1,3 triệu sinh viên) và Hàn Quốc có 3,8% dân số (khoảng 2 triệu sinh viên) nhập học đại học trong cùng năm đó. Về lâu dài, để tương xứng với tỷ lệ tuyển sinh của quốc gia thu nhập trung bình cao, Việt Nam cần tạo điều kiện tuyển sinh được khoảng 3,8 triệu sinh viên, hơn gấp đôi số sinh viên được tuyển sinh năm 2019.
Tương tự, tỷ lệ nhập học ròng (GER) 21 cấp giáo dục sau phổ thông của Việt Nam là 28,6% năm 2019, thấp hơn nhiều so với Hàn Quốc (trên 98%), Trung Quốc (trên 53%) và Malaysia (43%), đồng thời thấp hơn rõ rệt so với tỷ lệ nhập học (GER) bình quân 55,1% của các quốc gia thu nhập trung bình cao.
Đồng thời, kết quả giáo dục đại học, được đo bằng tỷ lệ tốt nghiệp gộp (GGR)22 chỉ đạt 19% (263.000 sinh viên tốt nghiệp đại học trong giai đoạn 2016-2019). Cuối cùng, đầu ra nghiên cứu của Việt Nam thấp hơn so với mức bình quân của các quốc gia Đông Á.
Trong năm 2019, đầu ra nghiên cứu của Việt Nam tương đương với Philippines và Indonesia, nhưng thấp hơn nhiều với các quốc gia đi trước như Malaysia và Trung Quốc.
Nhìn vào số liệu cơ cấu lao động đang làm việc tại Việt Nam, bên cạnh thực trạng là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp, còn tồn tại sự bất hợp lý về cơ cấu lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên chiếm cao hơn lao động có trình độ trung cấp, sơ cấp; thể hiện trình trạng thừa thầy, thiếu thợ.
Thêm nữa, chi phí tài chính cho việc học đại học cũng ngày càng lớn và lợi suất kinh tế giảm dần nếu theo học đại học là những lý do khiến cho nhu cầu trở nên yếu đi. Ngoài ra hệ thống còn có những bất cập khác như không cung cấp được những kỹ năng mà chủ sử dụng lao động cần có, đầu tư từ ngân sách còn thiếu, thể chế quản trị giáo dục đại học còn yếu và manh mún...
Báo cáo nghiên cứu cũng chỉ ra nguyên nhân dẫn tới hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam chưa đạt kết quả như mong muốn là do cả yếu tố cung và cầu.
Nhiều gia đình và nhiều học sinh có ý định theo học sau phổ thông nhưng phải đối mặt với chi phí cơ hội cao nếu muốn theo đuổi tấm bằng của chương trình giáo dục sau phổ thông và suất sinh lời của giáo dục sau phổ thông lại giảm dần do liên quan tới chuyện thành công về xuất khẩu nhờ khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam.
Học sinh sinh viên cũng có thể vướng phải rào cản để theo học đại học do chi phí tài chính gia tăng và tỷ lệ chi phí mà các hộ gia đình phải gánh chịu ngày càng lớn.
Trong khi đó, hệ thống giáo dục sau phổ thông chưa có khả năng đáp ứng nhu cầu kỹ năng trên thị trường lao động. Nhà nước cũng chỉ mới cung cấp khoảng 80% chương trình giáo dục sau phổ thông còn giáo dục đại học của Việt Nam vẫn chưa được đảm bảo đủ kinh phí.
Tình trạng thiếu vốn gây cản trở quá trình mở rộng và cải thiện chất lượng giáo dục sau phổ thông cũng như phát triển năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam. Cho dù đã có một vài cải thiện về năng lực đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ, nhưng tình trạng thiếu vốn của Chính phủ dành cho nghiên cứu và phát triển trong các trường đại học đang cản trở những tiến triển có thể đạt được....
Thông qua báo cáo nghiên cứu, đại diện WB cũng đưa ra những khuyến nghị chi tiết nhằm cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục đại học, nâng cao chất lượng và sự phù hợp trong giảng dạy, nâng cao hiệu suất sử dụng nguồn lực; trong đó có khuyến nghị về mở rộng áp dụng công nghệ số, nâng cao vai trò của khu vực tư nhân, và hài hòa hệ thống văn bản pháp quy./.
Tin liên quan
-
Ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước ra mắt chương trình giáo dục về tài chính
12:25' - 08/08/2022
Ngày 8/8, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức buổi ra mắt chương trình “Tay hòm chìa khóa” mùa 2.
-
Kinh tế & Xã hội
Ban hành Chương trình Giáo dục thường xuyên mới cấp Trung học Phổ thông
12:36' - 03/08/2022
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chương trình Giáo dục thường xuyên mới cấp THPT được thực hiện từ năm học 2022-2023 với lớp 10; từ năm học 2023-2024 với lớp 11 và từ năm học 2024-2025 với lớp 12.
-
Kinh tế & Xã hội
Khởi động Dự án hợp tác đổi mới giáo dục Đại học
21:53' - 01/08/2022
Lễ khởi động Dự án hợp tác đổi mới giáo dục Đại học đã diễn ra tại Hà Nội vào chiều 1/8 giữa giữa Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) và 3 cơ sở giáo dục đại học lớn nhất Việt Nam.
Tin cùng chuyên mục
-
Ý kiến và Bình luận
BoK: Hệ thống tài chính Hàn Quốc vẫn ổn định
21:58' - 28/03/2024
Theo dữ liệu từ Cơ quan Giám sát dịch vụ Tài chính Hàn Quốc (FSS), tỷ lệ nợ quá hạn đối với các khoản vay tài trợ cho dự án bất động sản đã lên tới 2,70% vào cuối tháng 12/2023.
-
Ý kiến và Bình luận
OPEC: Ngành dầu mỏ cần đầu tư 14.000 tỷ USD để đáp ứng nhu cầu thế giới
08:39' - 28/03/2024
Hồi tháng 1/2024, OPEC dự báo nhu cầu dầu mỏ toàn cầu sẽ đạt 106,21 triệu thùng/ngày vào năm 2025, đồng thời khẳng định nhu cầu dầu thế giới sẽ tiếp tục tăng trong hai thập niên tới.
-
Ý kiến và Bình luận
"Tiếng chuông báo động" đối với kinh tế Ukraine
08:04' - 28/03/2024
Tính đến ngày 29/2, nợ chính phủ và các khoản được Chính phủ Ukraine bảo lãnh lên tới 490,1 tỷ hryvnia, tương đương 12,47 tỷ USD.
-
Ý kiến và Bình luận
Quan chức Fed đưa ra khuyến nghị mới về lộ trình giảm lãi suất
07:57' - 28/03/2024
Thống đốc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) Christopher Waller, cho rằng Fed nên thu hẹp mức độ giảm hoặc trì hoãn việc hạ lãi suất để ứng phó với số liệu lạm phát "đáng thất vọng”.
-
Ý kiến và Bình luận
Nâng chất lượng thực thi
09:54' - 27/03/2024
Năm 2024, doanh nghiệp vẫn tiếp tục đối mặt với rất nhiều khó khăn cả bên trong và bên ngoài. Khi đối mặt với những khó khăn như vậy, các doanh nghiệp kỳ vọng môi trường kinh doanh tiếp tục thuận lợi.
-
Ý kiến và Bình luận
EU lo ngại thương vụ Lufthansa-ITA Airways đẩy giá vé lên cao
09:04' - 27/03/2024
Kế hoạch mua cổ phần của hãng hàng không Lufthansa trong ITA Airways của Italy có thể gây tổn hại đến cạnh tranh và đẩy giá vé lên cao.
-
Ý kiến và Bình luận
IMF: Trung Quốc có thể đẩy nhanh tăng trưởng nhờ cải cách theo hướng thị trường
07:10' - 26/03/2024
Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Kristalina Georgieva cho biết với gói cải cách toàn diện theo hướng thị trường, Trung Quốc có thể tăng trưởng nhanh hơn đáng kể so với kịch bản hiện tại.
-
Ý kiến và Bình luận
Tích trữ và khai thác hiệu quả nguồn nước giúp thích ứng xâm nhập mặn
15:29' - 25/03/2024
Trữ nước và khai thác hiệu quả nguồn nước hiện đang là giải pháp giúp cho các địa phương khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có thể sống chung với hạn hán và xâm nhập mặn.
-
Ý kiến và Bình luận
Fed: Kinh tế Mỹ không có dấu hiệu suy thoái trong những năm tới
11:11' - 25/03/2024
Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) không nhận thấy dấu hiệu suy thoái của nền kinh tế trong năm nay cũng như hai năm sau đó.