Đưa dòng vốn luân chuyển vào nền kinh tế để xử lý nợ xấu

08:31' - 15/04/2022
BNEWS Nợ xấu vốn được coi là “cục máu đông” ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống tài chính ngân hàng và hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp.

Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng của Quốc hội đã tạo hành lang pháp lý xử lý nợ xấu hiệu quả trong 5 năm qua. Tuy nhiên, liên tiếp trong 2 năm 2020-2021, dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nặng nề tới cộng đồng doanh nghiệp cộng với việc huy động vốn trái phiếu doanh nghiệp thiếu kiểm soát chặt chẽ dự báo nợ xấu ngân hàng gia tăng. Trong khi đó, ngày 15/8/2022 Nghị  quyết 42 sẽ chính thức hết hiệu lực thi hành.

TTXVN thực hiện chùm bài viết về xử lý nợ xấu nhằm phản ánh những kết quả đã đạt được trong quá trình thí điểm xử lý nợ xấu và những giải pháp chính sách tiếp theo để đưa dòng vốn vào nền kinh tế trong thời gian tới.

Bài 1: Đưa dòng vốn luân chuyển vào nền kinh tế
 
Ngân hàng Nhà nước cho biết, thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết 42), từ năm 2017 đến nay toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 380.000 tỷ đồng nợ xấu. Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú, đây là khối lượng vốn rất lớn đã được quay vòng và tái tạo đầu tư trở lại cho nền kinh tế; giải quyết được nhiều lãng phí xã hội. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, nợ xấu đang xu hướng tăng lên.

*Nợ xấu có xu hướng tăng

Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, cuối năm 2021 tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 1,9% (tăng 0,21 điểm % so với cuối năm 2020), nếu tính thêm nợ bán cho Công ty TNHH Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) thì con số này là 3,9%. Tỷ lệ nợ xấu gộp, bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản cơ cấu lại tăng mạnh lên mức 7,31% cuối năm 2021 và gần tương đương với con số cuối năm 2017 là 7,4% khi chưa thực hiện Nghị quyết 42.

Theo báo cáo tài chính năm 2021 mới được các ngân hàng công bố, nợ xấu có xu hướng gia tăng rõ rệt so với năm 2020 tại một số ngân hàng như Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) tăng 60%, Ngân hàng Thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam (Vietinbank) tăng 49%, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIB) tăng 58%, Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HDB) tăng 43%...
 

Giới chuyên gia cũng cảnh báo, trong 2-3 năm tới, riêng khoản nợ 138.000 tỷ đồng trái phiếu bất động sản đến hạn trả nợ trong khi khó khăn do ảnh hưởng dịch COVID-19 và các xung đột chính trị đang bủa vây doanh nghiệp có khả năng gây ra các khoản nợ xấu.

Bên cạnh đó, nợ xấu cũng sẽ sớm lộ diện trên báo cáo tài chính các ngân hàng khi thời hạn cơ cấu nợ xấu chỉ kéo dài đến ngày 30/6/2022 thực hiện theo Thông tư 14/2021/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19. Có nghĩa do không còn đợt giãn nợ nào khác sau thời hạn này, các ngân hàng sẽ công bố nợ xấu thực tế.

“Với tỷ lệ nợ xấu ở mức 7,31% vào cuối năm 2021 thì  điều này khó đảm bảo thực hiện được mục tiêu duy trì tỷ lệ nợ xấu ở mức an toàn dưới 3%, sẽ có tác động tiêu cực, trực tiếp đến chất lượng tài sản và năng lực tài chính của các tổ chức tín dụng”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú nói.

Các chuyên gia kinh tế cho rằng, nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng gia tăng là điều đã được dự báo trước khi mà sự bùng phát của đại dịch COVID-19 đã gây ra các tổn thất nặng nề đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, sinh kế và đời sống của người dân.

Theo VAMC, dịch đã có các tác động mạnh tới hoạt động xử lý nợ xấu của công ty này từ các khoản nợ mua theo giá trị thị trường, việc đôn đốc khách hàng chỉ thực hiện gián tiếp qua gọi điện và gửi email, không tiếp xúc trực tiếp nên kết quả thu hồi nợ bị hạn chế. Dịch cũng khiến tài sản đấu giá khó thu hồi tiền bán do khách hàng gặp khó khăn tài chính, bàn giao tài sản và hoàn tất thủ tục sau đấu giá bị đình trệ. Việc tổ chức đấu giá tài sản không thể thực hiện do giãn cách xã hội...

TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV tỏ ra không ngạc nhiên khi tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ngân hàng tăng mạnh kể từ năm 2020 và dự kiến sẽ còn tăng trong giai đoạn tới. Theo TS. Cấn Văn Lực, để ứng phó với diễn biến tiêu cực của nợ xấu, các tổ chức tín dụng đã chủ động phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, tỷ lệ bao phủ nợ xấu bình quân của 28 ngân hàng thương mại niêm yết và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (chiếm khoảng 80% thị phần tổng tài sản) đã tăng lên mức 150% cuối năm 2021, là mức cao nhất từ trước tới nay, song nợ xấu vẫn còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, gánh nặng đối với hệ thống tổ chức tín dụng.

Do đó, TS. Cấn Văn Lực  cho rằng,  nợ xấu vẫn là tâm điểm của thị trường tài chính Việt Nam trong năm 2022, khi mà tỷ lệ nợ xấu gộp đang ở mức cao nhất trong vòng 4 năm trở lại đây, phá vỡ thành quả tái cơ cấu các tổ chức tín dụng trong giai đoạn 2016 - 2020. Do có độ trễ, nợ xấu nội bảng được dự báo có thể lên mức 2,3 - 2,5% và nợ xấu gộp sẽ khoảng 6% trong năm 2022, có thể còn ở mức cao hơn.

Phó Thống đốc Đào Minh Tú cũng xác định, năm 2022 là một năm thử thách lớn cho ngành ngân hàng.

* Hoàn thiện hành lang pháp lý

 
Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, Ngân hàng Nhà nước đang đẩy mạnh thực hiện các giải pháp để kiểm soát và xử lý nợ xấu; ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh; ngăn ngừa tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các tổ chức tín dụng có liên quan. Đồng thời, tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động của tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao, phấn đấu duy trì tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức an toàn.

Đặc biệt, mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 47/NQ-CP thông qua đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về việc kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 (Nghị quyết số 42) của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước là một tín hiệu tích cực cho việc tiếp tục duy trì cơ sở pháp lý đủ mạnh để thực hiện việc xử lý nợ xấu trong giai đoạn tới.

Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực, hơn 70% các khoản nợ xấu được xử lý; tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng  trong giai đoạn 2016-2020 được duy trì dưới mức 3% và giảm liên tục qua các năm. Đặc biệt, Nghị quyết còn có tác động rất tích cực tới thái độ và trách nhiệm của khách hàng trong việc trả nợ hoặc hợp tác thu giữ, phát mại tài sản đảm bảo.

Song, việc triển khai Nghị quyết 42 còn rất nhiều vướng mắc, bất cập như thu giữ tài sản bảo đảm, xác định thứ tự ưu tiên thanh toán từ tiền bán/phát mại tài sản bảo đảm, nguyên tắc áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu…

Các khó khăn, vướng mắc chủ yếu do bất cập, xung đột pháp lý giữa các văn bản quy phạm pháp luật ngành ngân hàng với các văn bản quy phạm pháp luật khác và xuất phát từ quá trình thực thi, dẫn đến một số quy định tại Nghị quyết 42 không thể áp dụng được trên thực tế.

Do đó, ông Nguyễn Quốc Hùng Tổng Thư ký Hiệp hội ngân hàng cho rằng cần luật hoá Nghị quyết 42 để xử lý vấn đề nợ xấu một cách triệt để, với thời gian và tiến độ nhanh hơn. Việc các ngân hàng thực hiện xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu dựa trên quy định của luật về xử lý nợ xấu sẽ đảm bảo cơ sở pháp lý có hiệu lực cao tương ứng với các luật khác để khắc phục được những hạn chế, rào cản pháp lý trong thực tiễn thực hiện Nghị quyết 42 hiện nay.

Ông Nguyễn Quốc Hùng cho rằng cần rà soát toàn diện các luật khác có liên quan đến xử lý nợ xấu và xử lý tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng như các luật về thuế, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Phá sản, Luật Thi hành án dân sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính… để phân tích, đánh giá những điểm chưa thống nhất, còn mâu thuẫn, đảm bảo hài hòa, kết nối với các quy định của pháp luật khác có liên quan.

Phó Thống đốc Đào Minh Tú cũng cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã đề xuất báo cáo Chính phủ nghiên cứu ban hành Luật Xử lý nợ xấu trong thời gian tới. Tuy nhiên, để có Luật Xử lý nợ xấu phải có thời gian nghiên cứu, khảo sát, đánh giá, tác động ban hành Luật. Nếu không kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết 42 thì sẽ có một số khoản nợ thuộc đối tượng trong Nghị quyết 42 mà không có cơ sở pháp lý để triển khai, đây sẽ là khó khăn cho những khoản nợ đó.

Bên cạnh xây dựng Luật Xử lý nợ xấu, các chuyên gia cũng cho rằng, cần sớm có giải pháp thúc đẩy thị trường mua bán nợ phát triển và coi đây là kênh chính để xử lý nợ xấu, chứ không cần các cơ chế đặc thù.

Sàn giao dịch nợ VAMC đã được thành lập gần nửa năm nay và nguồn nợ xấu đã sẵn sàng để giao dịch nhưng các tổ chức tín dụng và VAMC vẫn chưa thể hiện thực hóa mua bán trên sàn.

Theo các chuyên gia kinh tế, để thị trường giao dịch sôi động cần có thêm nhiều người mua. Hiện pháp luật chưa có quy định cụ thể về mua bán nợ xấu đối với nhà đầu tư nước ngoài, do đó cần hoàn thiện chính sách để mở rộng chủ thể tham gia thị trường. Đồng thời cần luật hóa quy định về xử lý nợ xấu để tạo hành lang pháp lý trong việc xử lý tài sản bảo đảm.

Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm thủ tục cũng như nghiên cứu đánh giá cho phép kéo dài Nghị quyết 42 thời gian tới. Hy vọng một hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu sẽ được định hình ngay giúp hỗ trợ các tổ chức tín dụng xử lý "cục máu đông", đưa nguồn vốn kịp thời phục hồi nền kinh tế./.

 

Bài 2: Ngân hàng "cầm đằng chuôi" nhưng vẫn gặp khó

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục