Đồng USD trở thành "nạn nhân" của cạnh tranh địa chính trị
Trang mạng của Câu lạc bộ Valdai số ra mới đây có bài viết cho biết, trả lời phỏng vấn tờ The Financial Times vào cuối tháng 3/2022, Phó Giám đốc điều hành thứ nhất của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Jita Gopinath nhận định: “Các biện pháp trừng phạt tài chính chưa từng có đối với Nga có nguy cơ làm suy yếu dần sự thống trị của đồng USD, khiến hệ thống tiền tệ quốc tế trở nên phân mảnh hơn”.
Các chuyên gia tại Viện phân tích An ninh Toàn cầu (The Institute for Analysis of Global Security, viết tắt là IAGS) đồng tình với đánh giá của IMF và khẳng định rằng các biện pháp cực đoan của Washington nhằm trừng phạt Moskva đã làm tăng nhu cầu thoát khỏi sự phụ thuộc vào đồng USD ở các quốc gia khác, và thậm chí là thoát ra khỏi hệ thống tài chính do Mỹ hậu thuẫn.Sai lầm chiến lược tạo ra những hệ thống thanh toán thay thếGiám đốc IAGS ông Gal Luft nói với đài CNBC rằng các biện pháp trừng phạt “bốc đồng” của Washington đối với Nga đã khiến “các ngân hàng trung ương tự hỏi liệu họ có đang bỏ tất cả trứng vào giỏ hay không, tức là phụ thuộc quá nhiều vào đồng USD”.Trước đó, Mỹ đã áp dụng các biện pháp trừng phạt tương tự đối với Cuba, Iran, Venezuela và Afghanistan, đặt nền kinh tế các nước này vào tình thế vô cùng khó khăn.Kiểm soát tài chính thế giới là một trong những nền tảng sức mạnh của Mỹ hiện nay, nhưng bất cứ khi nào Mỹ sử dụng vai trò hàng đầu của đồng USD trong hệ thống tài chính toàn cầu như một vũ khí để trừng phạt các quốc gia khác, phần còn lại của thế giới bắt đầu tìm kiếm các giải pháp thay thế cho đồng USD trong thanh toán quốc tế và thương mại quốc tế.Việc tịch thu tài sản của Nga, đóng băng dự trữ ngoại hối của Ngân hàng trung ương Nga (BoR) và phong tỏa các khoản thanh toán đối với trái phiếu Eurobonds tại các trung tâm thanh toán bù trừ là những sai lầm chiến lược của phương Tây. Sai lầm này đã gián tiếp làm chấm dứt triển vọng duy trì cấu trúc hiện có của tài chính thế giới, và cuộc khủng hoảng đã nổ ra.Cho tới nay, đồng USD vẫn là đồng tiền dự trữ chính của thế giới, đó là lý do tại sao việc phân phối tiền mặt và dòng vốn trên thế giới phần lớn được xác định bởi các chu kỳ kinh tế và tiền tệ của Mỹ.Thực tế là việc sử dụng đồng tiền quốc gia của Mỹ không chỉ để lưu thông nội bộ mà còn để phục vụ một lượng đáng kể các khoản thanh toán quốc tế và tích lũy dự trữ của các ngân hàng trung ương. Do đó, cần phải có nhiều USD lưu thông ở thế giới bên ngoài Mỹ và việc Mỹ nhập khẩu càng nhiều hàng hóa và dịch vụ từ bên ngoài càng tốt để đổi lấy USD của mình, nghĩa là nước này xuất khẩu USD, và như vậy nguồn cung USD phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed), cũng như vào khối lượng và “sức khỏe” của thị trường tiêu dùng Mỹ.Tuy nhiên, điều này tạo ra một cán cân thương mại âm và làm tăng nợ quốc gia của Mỹ, vì Fed đang phát hành USD không dùng tiền mặt để đổi lấy trái phiếu kho bạc.Và để các cuộc thanh toán quốc tế diễn ra sâu rộng hơn, cũng như để kinh tế thế giới tăng trưởng, điều cần thiết là thâm hụt cán cân thanh toán ở Mỹ không ngừng tăng lên và nợ của chính phủ, ngân hàng, tập đoàn và hộ gia đình Mỹ ngày càng tăng, bởi vì việc mở rộng tiêu thụ phần lớn là mở rộng tín dụng. Đây là mô hình của chủ nghĩa siêu tư bản tài chính hiện đại.Mặc dù vậy, rõ ràng là điều này không thể tiếp diễn vô thời hạn. Sự mất cân đối trong hệ thống tài chính và các biện pháp chống lạm phát kỷ lục, sự thắt chặt định lượng của Fed, suy thoái kinh tế Mỹ và sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng nợ đang tước đi một phần đáng kể USD “bên ngoài” của hệ thống tài chính toàn cầu.Khối lượng của đồng tiền thanh toán chính trong thương mại khu vực giảm chỉ có thể được thay thế bằng đồng tiền quốc gia của các nước liên quan đến thương mại đó. Quá trình này hiện đã bắt đầu diễn ra.Các quốc gia hứng chịu các lệnh trừng phạt của Mỹ và Liên minh châu Âu (EU), cũng như các quốc gia cảm thấy bị đe dọa bởi Washington, đang cố gắng tránh việc thanh toán bằng đồng USD, đồng trời ngừng tích luỹ dự trữ bằng các đồng tiền USD và euro. Nếu có thể, họ thậm chí rút tài sản ra khỏi Mỹ và EU.Rủi ro địa chính trị đang buộc các quốc gia chuyển sang sử dụng đồng tiền tệ quốc gia trong các thanh toán và tạo ra các hệ thống thanh toán thay thế. Các nước lo ngại về lạm phát nhập khẩu của Mỹ và việc Fed thắt chặt tiền tệ đe dọa cắt giảm nguồn cung USD cũng đang tìm cách giải quyết bằng các đồng tiền mạnh nhất trong khu vực phù hợp với mô hình thương mại xuyên biên giới. Vì vậy vào cuối năm 2021, đồng nhân dân tệ của Trung Quốc đứng ở vị trí thứ 4 về thị phần trong các thanh toán quốc tế.Sự chuyển dịch sang “các loại tiền dự trữ phi truyền thống”Dự trữ quốc tế, thường được gọi là vàng và dự trữ ngoại hối, là những tài sản đối ngoại đáng tin cậy và có tính thanh khoản cao, có thể được sử dụng để cân bằng trong trường hợp cán cân thanh toán thâm hụt và để can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm điều chỉnh cán cân thương mại.Chính vì vậy, các ngân hàng trung ương của nhiều quốc gia đã tích luỹ dự trữ bằng chính các loại tiền tệ mà các công ty của những quốc gia này thực hiện thương mại quốc tế và loại tiền tệ của các khoản vay được thực hiện tại thị trường vốn nước ngoài.Các ngân hàng trung ương trên khắp thế giới đã nắm giữ 62% dự trữ ngoại hối của họ bằng đồng USD từ trước khi đại dịch COVID-19 bắt đầu, bởi vì đồng USD là tiền tệ chính để giải quyết các hoạt động ngoại thương của hầu hết các quốc gia.Tuy nhiên, tình hình hiện đang thay đổi. Lạm phát ở các nước đang phát triển và cuộc chiến kinh tế tổng lực của Mỹ cùng các đồng minh đang buộc các nước chuyển sang sử dụng và giao dịch bằng đồng tiền quốc gia.Ông Andrey Kostin, người đứng đầu Ngân hàng VTB đã phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Quốc tế St-Peterbrug 2022 rằng: “Chúng tôi đang hoàn toàn chuyển sang sử dụng đồng ruble... Tất nhiên, chúng tôi không thể cung cấp tổng hợp các dịch vụ mà các ngân hàng không bị trừng phạt có thể cung cấp”. Nếu đồng USD và euro ngày càng ít được sử dụng trong thanh toán quốc tế thì tỷ trọng của hai đồng tiền này trong dự trữ của các ngân hàng trung ương cũng sẽ giảm dần.Đồng bảng Anh không còn là đồng tiền dự trữ của thế giới từ cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, khi Vương quốc Anh vướng vào những khoản nợ khổng lồ. Giờ đây, dường như đồng USD đang đi theo con đường tương tự như đồng bảng Anh vào giữa thế kỷ XX.Có một quy luật trong thế giới tài chính, đó là nếu khoản nợ của các tổ chức phát hành đồng tiền dự trữ so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) liên tục tăng và sự tăng trưởng nợ nước ngoài ở các nước có “vị thế ròng về tài sản nước ngoài” xấu đi, thì cuối cùng, người nước ngoài sẽ mất đi sự quan tâm đối với loại tiền tệ như vậy. Theo báo cáo của IMF, tỷ trọng của đồng USD trong dự trữ của các ngân hàng trung ương đã giảm từ 71% vào năm 1999 xuống còn 59% vào cuối năm 2021 và có sự chuyển dịch sang “các loại tiền dự trữ phi truyền thống”, cụ thể là đồng nhân dân tệ của Trung Quốc và đồng tiền tệ của một số nền kinh tế khác như đồng đô la Australia và đô la Canada, cũng như đồng won của Hàn Quốc.Hệ thống Bretton Woods đa tiền tệ mớiTrong một báo cáo, Ngân hàng Thuỵ Sỹ Credit Suisse cho biết: “Chúng ta đang chứng kiến sự ra đời của hệ thống Bretton Woods III, một trật tự tiền tệ toàn cầu mới dựa trên các loại tiền tệ được hỗ trợ bởi hàng hoá.Các quy tắc trong nền kinh tế và tài chính toàn cầu bắt đầu được quyết định bởi các nhà cung cấp các nguồn lực vật chất. Như nhận định của người đứng đầu Gazprom Aleksey Miler tại Diễn đàn Kinh tế St-Peterburg 2022, “nhu cầu về nguyên liệu thô ngày càng thế chỗ cho dự trữ ngoại hối, đây là một sự thay đổi mang tính kiến tạo đáng kể… mô hình đang thay đổi, sự thống trị của đồng USD đang suy yếu, quá trình thanh toàn bằng các đồng tiền quốc gia bắt đầu xuất hiện.Credit Suisse là một trong những tổ chức đầu tiên nhận thấy điều mà các nước EU và Mỹ không muốn thừa nhận cho tới nay, đó là quyết định yêu cầu thanh toán khí đốt bằng đồng ruble của Tổng thống Nga Vladimir Putin, dù ở trong tình thế bắt buộc, nhưng lại mang tính chiến lược và trở thành một bước ngoặt trong diễn biến của hệ thống tài chính toàn cầu.Việc sử dụng đồng ruble để thanh toán cho nguồn cung năng lượng của Nga và tất cả các hàng hóa khác đã khiến các quốc gia không thân thiện, và thậm chí là thân thiện với Nga, có rất ít lựa chọn. Họ hoặc phải đồng ý mua dầu và khí đốt từ Nga bằng đồng ruble, hoặc tìm kiếm các phương án thay thế.Và châu Âu không có lựa chọn thay thế cho năng lượng Nga. Bên ngoài châu Âu, Nga và Ấn Độ đang chuyển sang sử dụng đồng tiền quốc gia, còn Saudi Arabia đang đàm phán với Trung Quốc để bán dầu bằng đồng nhân dân tệ của Trung Quốc, thay vì đồng USD. Đồng nhân dân tệ được đảm bảo bởi hàng hóa sản xuất ở Trung Quốc, cũng đang trở thành đơn vị tiền tệ Bretton Woods mới.Trong khi đó, quá trình hội nhập của không gian Á-Âu thông qua nỗ lực của các hiệp hội khu vực lớn, chẳng hạn như Tổ chức Hợp tác Thượng hải (SCO) hay Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), có thể khởi động việc hình thành một khu vực kinh tế, tài chính, đầu tư và năng lượng lục địa với việc thanh toán bằng tiền tệ quốc gia của các nước thành viên thuộc các tổ chức này. Ngoài ra, việc làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác chiến lược trong khuôn khổ BRICS sẽ mở rộng việc sử dụng đồng tiền quốc gia để thanh toán trên cả ba châu lục. Các hệ thống thanh toán thay thế hệ thống SWIFT truyền thống cũng đang được thúc đẩy. Sau khi phương Tây “ngắt” các ngân hàng Nga khỏi hệ thống SWIFT, việc tạo ra các hệ thống thay thế đang được tăng tốc.Tất cả các hệ thống thanh toán như vậy đều có những nguyên tắc xây dựng chung. Bất cứ hệ thống thay thế nào cũng phải có một nhóm các ngân hàng tham gia, phần mềm bảo mật riêng và một hệ thống mã tin nhắn chứa các hướng dẫn thanh toán.Đơn vị tiền tệ thanh toán trong hệ thống thay thế có thể là bất kỳ loại nào, quan trọng là các ngân hàng tham gia có tài khoản đại lý tương ứng tại ngân hàng của các quốc gia mà các khoản thanh toán bằng loại tiền tệ này được thực hiện. Hệ thống phải có các trung tâm xử lý dữ liệu riêng, cửa hàng giao dịch tập trung và mạng truyền thông tin.Nếu tất cả các điều kiện này được đáp ứng thì nhiều quốc gia sẽ có lựa chọn thay thế riêng cho SWIFT để thanh toán bằng đồng tiền tệ quốc gia.Trung Quốc và Nga đã tạo ra hệ thống tương tự - Hệ thống Thanh toán Quốc tế Trung Quốc (CIPS) và Hệ thống Truyền tin nhắn tài chính của Ngân hàng Trung ương Nga (CPFS) - hệ thống liên ngân hàng của Nga để truyền tin nhắn tài chính và thanh toán, trên thực tế là một lựa chọn thay thế thực sự cho SWIFT.Nga đã đề xuất Ấn Độ sử dụng CPFS. Vì hệ thống này được điều chỉnh để truyền tin nhắn ở định dạng SWIFT nên sẽ không có vấn đề gì đối với các ngân hàng nước ngoài khi sử dụng nó. Nếu thử nghiệm Nga-Ấn này thành công thì có thể hy vọng sự mở rộng địa lý của việc sử dụng phương án thay thế của Nga.Các rủi ro địa chính trị, mà chỉ vài năm trước đây không ai có thể nghĩ tới, đang thay đổi ý tưởng về các loại tiền tệ đáng tin cậy và các trung tâm tài chính toàn cầu.Và tác động lớn nhất đối với hệ thống tài chính thế giới hiện tại là do những quốc gia đã tạo ra hệ thống này vào giữa thế kỷ XX tạo ra. Có lẽ, thế giới đang dần bước vào một trật tự tiền tệ mới, và đồng USD, trớ trêu thay, lại trở thành “nạn nhân” của cạnh tranh địa chính trị./.Tin liên quan
-
Ngân hàng
Reuters: Đồng USD sẽ tiếp tục tăng trong ít nhất ba tháng tới
15:56' - 07/07/2022
Theo Reuters, đồng USD sẽ vẫn mạnh trong ít nhất ba tháng tới trước quan điểm cứng rắn của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đối với vấn đề lãi suất và nhu cầu “tài sản an toàn”.
-
Phân tích - Dự báo
Tiền số có giúp NDT cạnh tranh với đồng USD?
05:30' - 30/06/2022
Trang Quỹ quốc tế VIF đăng bài phân tích của nhà nghiên cứu Sauradeep Bag về sức cạnh tranh của đồng nhân dân tệ (NDT) với đồng USD trong bối cảnh Trung Quốc đang thúc đẩy đồng NDT kỹ thuật số.
-
Ngân hàng
Trung Quốc: Đồng NDT số ngày càng được ứng dụng rộng rãi
08:11' - 23/06/2022
Được ra mắt rộng rãi hồi tháng một, dịch vụ thanh toán bằng đồng NDT số trên Meituan đã thu hút khoảng 6 triệu người dùng tính đến ngày 20/6.
Tin cùng chuyên mục
-
Phân tích - Dự báo
Hy vọng mới cho lĩnh vực bán lẻ của Trung Quốc
06:30'
Tại Trung Quốc, trong khi người dân tại các đô thị lớn đang phải “thắt lưng buộc bụng” do triển vọng kinh tế không chắc chắn, một câu chuyện lạc quan hơn đang diễn ra ở các thành phố cấp 3 và cấp 4.
-
Phân tích - Dự báo
Mỹ Latinh và bài toán tận dụng tối ưu nguồn vốn FDI
05:30'
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có ý nghĩa to lớn đối với các nước Mỹ Latinh trong việc hoạch định các chính sách kinh tế và chiến lược hỗ trợ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế.
-
Phân tích - Dự báo
Thế khó của OPEC+ trong việc cân bằng thị trường dầu mỏ
16:04' - 21/11/2024
Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đối tác do Nga dẫn đầu, còn được gọi là OPEC+, sẽ có rất ít khả năng điều chỉnh chính sách dầu mỏ khi nhóm họp vào tháng 12 tới.
-
Phân tích - Dự báo
Nhiệm kỳ Trump 2.0: Thách thức lớn đối với ngành nông nghiệp thực phẩm
05:30' - 21/11/2024
Theo trang mạng sasktoday.ca, việc ông Trump tái đắc cử chắc chắn là một sự kiện quan trọng, và lần này, người dân Canada có thể sẽ tiếp cận sự kiện này với nhiều sự dè dặt hơn.
-
Phân tích - Dự báo
Giá thực phẩm leo thang- Thách thức đối với kinh tế Nga
06:30' - 20/11/2024
Người dân Nga vật lộn với giá thực phẩm tăng cao ngay cả trước giai đoạn tăng đỉnh điểm trong năm nay.
-
Phân tích - Dự báo
Dầu khí sẽ là một trong những ưu tiên của chính quyền Trump
05:30' - 20/11/2024
Trong chiến dịch tranh cử của mình, ông Trump cam kết sẽ tối đa hóa sản lượng dầu thô của Mỹ và tiếp tục phủ nhận biến đổi khí hậu.
-
Phân tích - Dự báo
Cải cách thuế EU - Bài cuối: Giải pháp cho sự thịnh vượng
06:30' - 19/11/2024
Mặc dù mức thuế trung bình đối với người lao động thông thường có thể có tác động đáng kể, nhưng mức thuế suất biên cao đối với người có thu nhập cao cũng đi kèm với chi phí kinh tế đặc biệt.
-
Phân tích - Dự báo
Cải cách thuế EU - Bài 1: Khác biệt giữa Mỹ và châu Âu
05:30' - 19/11/2024
Mạng tin Gisreportsonline mới đây đăng bài viết của ông Adam Michel, Giám đốc nghiên cứu chính sách thuế tại Viện Cato, cho rằng việc giảm thuế lao động là cần thiết để tăng sức cạnh tranh của EU.
-
Phân tích - Dự báo
Cơ hội để dòng vốn đổ về Việt Nam
14:46' - 18/11/2024
Các thị trường mới nổi, trong đó có Việt Nam có thể tận dụng cơ hội khi các nhà đầu tư bắt đầu rút vốn chuyển về Mỹ sau khi ông Donald Trump đắc cử Tổng thống thứ 47 của Mỹ ngày 5/11 vừa qua.