Giải pháp nào giúp Than Vàng Danh tăng hiệu quả khai thác than ở các lò chợ?

08:30' - 04/10/2022
BNEWS Công ty cổ phần Than Vàng Danh thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) hiện đang áp dụng hệ thống cơ giới, tự động hóa đồng bộ trong khai thác than ở các lò chợ.

Ứng dụng công nghệ trong khai thác ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại vào sản xuất than là giải pháp giúp ngành than áp dụng nhằm tăng năng suất, sản lượng khai thác và nhất là giảm tổn thất khi thu hồi.

Tại Công ty cổ phần Than Vàng Danh - Vinacomin (Than Vàng Danh) thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) hiện đang áp dụng hệ thống cơ giới, tự động hóa đồng bộ trong khai thác than ở các lò chợ.

Điều này đã giúp công ty cải thiện điều kiện làm việc cho thợ lò, hạn chế tác động đến môi trường, giảm số lượng lao động, góp phần xây dựng mô hình mỏ xanh, sạch, hiện đại, ít người.

*Tăng hiệu quả sản xuất

Sau khi được phổ biến quy trình an toàn khi xuống lò và để lại tất cả các thiết bị gây cháy nổ như điện thoại, máy ghi…. chúng tôi lên xe song loan xuống lò mức âm 135m so với mực nước biển, rồi đi bộ tiếp xuống khu vực khai thác ở mức âm 175m.

Men theo những đường lò ngoằn ngoèo cùng với những đường ray dành hệ thống xe goòng chở than, thậm chí có những chỗ phải cúi người mới chui qua được dù nhiều chỗ có gió mát rượi nhưng lưng áo chúng tôi vẫn đẫm mồ hôi. Thỉnh thoảng chúng tôi lại được nghe thấy loa thông báo sắp có xe goòng đi qua phải tránh. Điều này cho thấy, điều kiện làm việc nơi đây của người thợ thật vất vả về điều kiện tự nhiên và sức khỏe.

Dẫn chúng tôi xuống sâu với những bước đầy khó khăn, thậm chí đối với phụ nữ như tôi cần phải có người giúp sức, anh Đỗ Văn Hưng, Quản đốc Phân xưởng khai thác 11, lò chợ cơ giới hóa Than Vàng Danh chia sẻ, trong hệ thống hầm lò có những vỉa than có khí sẵn làm nóng đường lò, gây ngột ngạt và bí làm giảm hiệu quả sản xuất của công nhân.

Do đó, công ty trang bị hệ thống làm mát bằng hơi làm cho đường lò càng thông thoáng. Chỉ có một đôi chỗ vẫn còn nóng và ngột ngạt nhưng dù sao điều kiện làm việc nay đã được cải thiện rất nhiều so với trước.
Hòa theo tiếng ầm ầm của máy khấu và băng chuyền vận tải thu hồi than, dù đi khá lâu nhưng chúng tôi vẫn chỉ gặp một vài thợ lò đứng vận hành máy và một số thợ đi kiểm tra an toàn ở các khu vực lò. Anh Dương Văn Hoàn, Phó quản đốc Phân xưởng khai thác 11 cho hay, Phân xưởng khai thác 11 lò chợ cơ giới hóa có 166 người. Trước đây số lượng lao động khai thác lò chợ khá đông và đi dưới lò có thể gặp nhiều tốp thợ vì một khâu sản xuất cần ít nhất từ 4-5 người.

Nhưng nay thực hiện cơ giới hóa đồng bộ, số thợ thực hiện khai thác ở lò chợ giảm, cả hệ thống lò chợ cơ giới hóa chỉ cần 6 người/ca sản xuất. Nhân lực bố trí vào dây chuyền chính như vận hành máy khấu, sang dàn đều là những thợ có kinh nghiệm, tay nghề bậc 5/5. Những người khác tay nghề thấp hơn chuyển sang tuyến phục vụ như đào lò, sửa chữa nhỏ… để chuẩn bị cho những diện lò tiếp theo. 

Nói thêm về công nghệ mới sử dụng tại lò chợ, anh Đỗ Văn Hưng bày tỏ, khi chưa sử dụng cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất thì việc chống giữ lò chủ yếu bằng gỗ và cột ma sát kích bằng tay. Điều này làm mất an toàn trong sản xuất, hiệu quả không cao vì sử dụng sức người là chính; số lao động nhiều nhưng năng suất khai thác thấp. 

“Chống giữ lò trước đây thường sử dụng khung gỗ không chịu được áp lực cao gây mất an toàn và tăng chi phí. Nay, một cột chống thủy lực có thể chịu được áp lực khoảng 30 tấn/đầu cột và sử dụng các phương pháp này an toàn hơn rất nhiều so với các phương pháp trước đây”, anh Đỗ Văn Hưng nói.
Dùng phương pháp dây chuyền cơ giới hóa đồng bộ là sử dụng máy móc ở tất cả các khâu thay thế sức lao động của con người từ khoan nổ mìn, máng cào, máy khấu, dây chuyền băng tải, hay chống lò bằng cột thủy lực và giá khung di động thì sản lượng khai thác tăng vượt bậc. Tỷ lệ tổn thất than ở lò chợ cơ giới hoá đồng bộ cũng thấp hơn so với các loại hình công nghệ khác từ 5-17,5%. Đặc biệt, công tác an toàn trong các lò chợ cơ giới hoá đồng bộ này được nâng cao, do công nhân làm việc dưới hệ thống liên kết các giàn chống, không phải sử dụng khoan nổ mìn so với các công nghệ khai thác truyền thống.

Sản lượng khai thác áp dụng công nghệ cơ giới hóa đồng bộ của Phân xưởng khai thác 11 hiện đã đạt 600 tấn/năm, tăng gấp 10 lần trước đây và nhờ đó, thu nhập của người lao động được nâng lên ở mức từ 20-25 triệu đồng/tháng, tăng từ 1,5-2 lần và cá biệt có người đạt trên 30 triệu đồng/tháng. Với mức thu nhập này, thợ lò đảm bảo được cuộc sống không những cho bản thân mà còn cho cả gia đình. 
Công nhân Phạm Hữu Mười, Phân xưởng khai thác 6 chia sẻ, anh làm việc tại công ty đã 25 năm. Khi mới vào công ty, thu nhập thấp, làm việc trong môi trường mệt nhọc, vất vả; đời sống tinh thần của công nhân còn hạn chế. Tuy nhiên, những năm gần đây được lãnh đạo công ty cũng như Tập đoàn TKV quan tâm nên điều kiện làm việc dưới lò không còn cảm thấy nặng nhọc như trước bởi đã có máy móc.

Lương thưởng tăng cao, công nhân được công ty hỗ trợ tiền thuê nhà (nếu là hộ gia đình) và ở tập thể (nếu từ các địa phương khác). Tập thể công ty còn có 3 phòng “hạnh phúc” với đầy đủ tiện nghi để nếu như công nhân có vợ, con ở xa đến thăm chồng thì cả gia đình sẽ ở tại căn hộ đó. Vì vậy, thợ lò luôn cảm thấy yên tâm và dốc hết sức cống hiến cho công ty.   
*Đưa công nghệ xuống sâu  
Than Vàng Danh là một trong những đơn vị sản xuất than hầm lò lớn của TKV với sản lượng khai thác hầm lò hàng năm khoảng 3 triệu tấn, chiếm từ 10-15% tổng sản lượng than khai thác hầm lò của toàn Tập đoàn. Theo đó, sản lượng than khai thác từ khu vực vỉa dốc trên 45 độ luôn duy trì từ 0,8-1,2 triệu tấn. 

Với địa hình khu vực nhiều vỉa dốc, nhiều năm trước, công ty chủ yếu áp dụng 2 sơ đồ công nghệ khai thác chính. Đó là, khai thác chia lớp ngang nghiêng hoặc chia lớp bằng và công nghệ khai thác buồng - lò thượng. Tuy nhiên, thực tế sản xuất cho thấy, hai sơ đồ công nghệ khai thác cơ bản đáp ứng yêu cầu của mỏ, song sản lượng và năng suất lao động còn hạn chế, chi phí mét lò chuẩn bị cao, tổn thất than lớn, đặc biệt là điều kiện làm việc, mức độ an toàn lao động còn hạn chế.
Phó Giám đốc Công ty Than Vàng Danh Hồ Quốc cho biết, để nâng cao hiệu quả khai thác  cũng như giảm tổn thất than và đảm bảo tuyệt đối an toàn trong sản xuất, năm 2018 công ty đã chỉ đạo sản xuất lò chợ cơ giới hóa đồng bộ và năm đầu tiên vuợt 6,8% công suất thiết kế.

Sau gần 5 năm đưa vào sử dụng, hệ thống cơ giới hóa đồng bộ tại các lò chợ hoạt động ổn định, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người và thiết bị. Than Vàng Danh đang khai thác lò chợ thứ 4 (dự án đầu tư khai thác phần lò giếng mức -175 khu Vàng Danh). Sản lượng than khai thác tính từ năm 2018 đến tháng 8/2022 đạt gần 2,15 triệu tấn than.
Phó Giám đốc Hồ Quốc cho biết thêm, năm 2017 công ty đã áp dụng công nghệ khai thác lò chợ xiên chéo, chống giữ bằng giàn mềm ZRY phục vụ khai thác các khu vực vỉa dốc đem lại hiệu quả cao. Sản lượng khai thác tính từ năm 2017 đến hết tháng 8/2022 đạt 641.664 tấn. Cùng đó, công ty triển khai nghiên cứu các công trình khoa học công nghệ áp dụng vào thực tế sản xuất và đạt được giải cao trong các hội thi sáng tạo tỉnh Quảng Ninh. 

Chẳng hạn như giải pháp thu hồi than hạ trần trong công nghệ khai thác lò chợ xiên chéo, chống giữ bằng giàn chống mềm ZRY áp dụng được cho các vỉa than có độ dày lớn hơn 3,5m. Hay như giải pháp nghiên cứu, thay đổi công nghệ khấu không để lại trụ bảo vệ tại các lò chợ. Với công nghệ này, sản lượng khai thác than tăng lên khoảng 16% so với lò khấu để lại trụ bảo vệ, mang lại hiệu quả kinh tế cao, giảm tổn thất than xuống còn 17%, làm lợi cho công ty hàng chục tỷ đồng. Cùng với đó, đảm bảo an toàn cho người lao động trong quá trình sản xuất, khai thác. 
Về cơ giới hóa trong trong đào lò, năm 2019 Than Vàng Danh đã đưa máy đào lò EBH45 đầu tiên vào đào các đường lò trong than. Đến năm 2020, công ty tiếp tục đầu tư đưa thêm 1 máy đào lò EBH45 vào thi công đào lò đáp ứng yêu cầu chuẩn bị diện sản xuất nhất là chuẩn bị diện cho lò chợ cơ giới hóa.

Hai dây chuyên máy đào lò này đều hoat động ổn định, nâng cao mức độ an toàn trong đào chống lò, không để xảy ra tai nạn, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Hiện hai dây chuyền máy đào lò này đang đào các gương lò và số mét lò tính từ tháng 12/2019 đến hết tháng 8/2022 đạt 4.861m.

Ngoài ra, công ty còn đầu tư một dây chuyền đào lò bán cơ giới xe khoan loại 1 cần kết hợp với máy xúc. Sau khi đưa vào áp dụng, hệ thống này hoạt động ổn định, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao năng suất đào lò đá trong công ty và đảm bảo an toàn tuyệt đối. Số mét lò tính từ tháng 11/2021 đến hết tháng 8/2022 đạt 372m.

Nhờ đó, đời sống của công nhân, người lao động, nhất là thợ lò từng bước được cải thiện với thu nhập bình quân đạt trên 17 triệu đồng/người/tháng; thợ lò đạt trên 22 triệu đồng/tháng và công ty đã có trên 400 người đạt mức thu nhập trên 35 triệu đồng/tháng. 

Để nâng cao đời sống cho công nhân, Than Vàng Danh đã đầu tư 55 tỷ đồng xây mới Khu tập thể công nhân 314 và đang có gần 400 công nhân đang ở trong khu tập thể này. Công ty cũng đưa vào sử dụng 2 khu nhà 5 tầng công năng hiện đại, có thư viện, phòng truyền thống, phòng rèn luyện thể chất… và 132 phòng ở với trang bị, tiện nghi. Công nhân ở tập thể không phải trả tiền nhà, hàng quý được cấp tiền mua nhu yếu phẩm thiết yếu và có xe đưa đón về quê dịp lễ Tết. 
Cho biết về tình hình sản xuất của công ty từ đấu năm đến nay, Phó Giám đốc Công ty Hồ Quốc cho hay, trong 9 tháng, Than Vàng Danh đã sản xuất được trên 3,25 triệu tấn than, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2021; đào lò mới 28.163 m lò, tăng 6,7 %; doanh thu đạt trên 4.500 tỷ đồng, tăng 17%.

Đời sống mọi mặt của người lao động tiếp tục được quan tâm, cải thiện với thu nhập tiền lương bình quân đạt trên 17 triệu đồng/người/tháng. Năm 2022, Than Vàng Danh phấn đấu hoàn thành vượt mức sản lượng TKV giao là trên 4,1 triệu tấn than, đảm bảo đời sống, việc làm cho người lao động với thu nhập bình quân hơn 20 triệu đồng/người/tháng./.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục