Gieo mầm xanh, gặt hiệu quả từ cánh đồng phát thải thấp

18:07' - 06/08/2025
BNEWS Thực hiện Đề án 1 triệu ha, An Giang đã thực hiện tổng số 55 mô hình. Hầu hết mô hình đều cho hiệu quả cao, nông dân đánh giá cao hiệu quả và quyết tâm thực hiện nhân rộng mô hình trong thời gian tới.

Qua hơn 1 năm thực hiện thí điểm các mô hình canh tác lúa chất lượng cao và phát thải thấp (thuộc Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030”) tại tỉnh An Giang cho thấy hiệu quả kinh tế cao và phát triển mang tính bền vững đối với nghề trồng lúa của nông dân. Ngày 6/8, xã Định Hòa, tỉnh An Giang, Trung tâm Khuyến nông tỉnh An Giang phối hợp cùng một số đơn vị tổ chức hội thảo đánh giá hiệu quả mô hình canh tác lúa giảm phát thải phục vụ phát triển bền vững vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu của Đồng bằng sông Cửu Long với sự tham gia của hơn 200 đại biểu là chuyên gia, nhà khoa học, đại diện các Hợp tác xã và nông dân trong tỉnh.

 

Giảm chi phí, công sức, tăng lợi nhuận

Mô hình Khuyến nông Trung ương canh tác lúa giảm phát thải phục vụ phát triển bền vững vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu của Đồng bằng sông Cửu Long được thực hiện tại Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Thạnh Xuân, xã Định Hòa với diện tích 50 ha, có 11 hộ nông dân tham gia. Mô hình thí điểm áp dụng mật độ sạ thưa (70 kg/ha), giảm 50 kg lúa giống so với mô hình canh tác truyền thống; năng suất lúa ước đạt 6,67 tấn/ha, cao hơn đối chứng 0,31 tấn/ha; tổng chi phí sản xuất lúa trong mô hình thấp hơn so với chi phí ngoài mô hình hơn 1,4 triệu đồng/ha; lợi nhuận trung bình của mô hình trình diễn tăng gần 3,9 triệu đồng/ha so với ngoài mô hình.

Ông Danh Thảo, Phó Giám đốc Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Thanh Xuân cho biết, việc kết hợp sạ thưa theo phương pháp sạ cụm, sạ hàng giúp giảm giống, đồng thời tăng hiệu suất sử dụng phân bón, quản lý dịch hại, quản lý nước hiệu quả, tiết kiệm. Qua đó, giúp giảm lượng phân đạm, kali, lân nguyên chất gần 50 kg/ha so với ruộng mô hình đối chứng, tương đương khoảng 1,3 triệu đồng. Ngoài ra, mô hình sử dụng phân bón cân đối đạm, lân, kali, trung vi lượng và phân hữu cơ vi sinh qua đó giúp cây lúa sinh trưởng, phát triển tốt, hạn chế sâu bệnh.

Trong suốt vụ nông dân tham gia mô hình và nông dân ngoài mô hình được giới thiệu về đề án 1 triệu ha, quy trình canh tác lúa lúa theo 1 triệu ha; quy trình và thủ tục cấp mã số vùng trồng trên lúa. Bên cạnh đó, nông dân được giới thiệu về hệ vi sinh vật đất trên đồng ruộng; giới thiệu hệ sinh thái đồng ruộng, thành phần thiên địch và sâu hại trong ruộng lúa, nội dung của IPM/IPHM và nguyên tắc của nó; kỹ thuật phòng trừ sâu rầy bằng gieo sạ né rầy… giúp nông dân nâng cao kiến thức, hiểu biết và hướng đến nhân rộng phương pháp trồng lúa chất lượng cao, phát thải thấp để giảm chi phí, tăng lợi nhuận, thích ứng tốt với biến đổi khí hậu, ông Danh Thảo chia sẻ.

Ông Lê Văn Dũng, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh An giang cho biết, được sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương, tỉnh và địa phương, sự nỗ lực của nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp nông giúp mô hình thí điểm và nhận rộng được lan tỏa nhanh và hiệu quả. Song bên cạnh đó cũng cho thấy một số hạn chế, khó khăn như: một số hộ dân còn tư duy trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước, còn một số thành viên hợp tác xã chưa nhận thức đầy đủ về việc tham gia thực hiện mô hình, chưa thực sự quyết tâm trong tham gia; thủ tục triển khai hỗ trợ vật tư theo quy định đấu thầu nên còn nhiều vướng mắc, ảnh hưởng đến mùa vụ, hợp tác công tư PPP; chưa phát huy được hết vấn đề thực hiện chuỗi liên kết khép kín đầu vào, đầu ra.

Trung tâm Khuyến nông tỉnh An Giang kiến nghị mở rộng diện tích mô hình theo quy mô của cánh đồng, thỏa mãn các yêu cầu về kỹ thuật và sản lượng, truy xuất nguồn gốc; bổ sung, hoàn thiện các khiếm khuyết về thiết kế đồng ruộng, san phẳng mặt ruộng, cơ giới gieo sạ cần đưa máy sạ cụm, sạ hàng loại nhỏ tránh phá vỡ mặt bằng ruộng, quản lý cỏ dại, dịch hại; Hợp tác xã vận động thành viên mở rộng diện tích, tiếp tục áp dụng tuân thủ việc thực hiện quản lý nước và quản lý rơm rạ, ghi chép sổ nhật ký đầy đủ hơn; chủ động tìm thị trường tiêu thụ lúa, rơm sau thu gom.

Nâng cao năng lực và chính sách tín dụng

Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang Trần Thanh Hiệp, thực hiện các cam kết của tỉnh với Trung ương và của Việt Nam với quốc tế, tỉnh An Giang phấn đấu đến năm 2030 đạt 352.787 ha vùng chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh qua việc tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình canh tác bền vững nhằm gia tăng giá trị ngành lúa gạo, nâng cao hiệu quả sản xuất và đời sống của người trồng lúa, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính.

Việc xây dựng các mô hình, đẩy mạnh áp dụng đồng bộ giải pháp kỹ thuật, công nghệ, cơ giới; hỗ trợ nông dân và các hợp tác xã thực hiện liên kết sản xuất với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị nông sản nhằm góp phần giảm chi phí, tăng thu nhập cho nông dân, xử lý rơm rạ hiệu quả, giảm phát thải, thực hiện tiêu chí của đề án để minh chứng tính khả thi trên diện rộng khi triển khai đề án và nhân rộng cho các địa phương khác.

Thực hiện Đề án 1 triệu ha, đến thời điểm này An Giang đã thực hiện tổng số 55 mô hình. Hầu hết mô hình đều cho hiệu quả cao, nông dân các địa phương đánh giá cao hiệu quả và quyết tâm thực hiện nhân rộng mô hình trong thời gian tới.

Để tiếp tục thực hiện hiệu quả Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao tại tỉnh An Giang trong thời gian tới, theo ông Trần Thanh Hiệp, cần có chính sách tín dụng ưu đãi cho mô hình canh tác bền vững; tăng cường tập huấn, chuyển giao kỹ thuật sản xuất ít phát thải cho nông dân và hợp tác xã; xây dựng mô hình liên kết tiêu biểu giữa nông dân, doanh nghiệp, nhà khoa học và hợp tác xã để nhân rộng; đồng thời đầu tư hệ thống giám sát, đánh giá phát thải và cơ chế chứng nhận sản phẩm “xanh” nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu và phát triển nông nghiệp bền vững.

Tỉnh tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền nhằm nâng cao vai trò của cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể, tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp trong chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể nhằm huy động sức mạnh tổng hợp để thúc đẩy phát triển các tổ chức đại diện nông dân, gắn với xây dựng mô hình liên kết sản xuất nông sản theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững; tăng cường tập huấn cho đội ngũ khuyến nông, cán bộ hợp tác xã, tổ hợp tác về quy trình canh tác lúa chất lượng cao theo khuyến cáo ngành chuyên môn. Đồng thời, bồi dưỡng kiến thức về thị trường, chuyển đổi số, kỹ năng kinh doanh, bán hàng trên các nền tảng thương mại điện tử, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng thích ứng trong bối cảnh mới.

Cùng đó, cần triển khai chính sách tín dụng, gói tín dụng phù hợp năng lực và điều kiện thực tế của hợp tác xã, tổ hợp tác nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính ổn định giúp tổ chức kinh tế tập thể nâng cao hiệu quả sản xuất lúa, gia tăng thu nhập, tạo động lực gắn bó lâu dài và phát triển trong giai đoạn mới - ông Trần Thanh Hiệp nhấn mạnh.

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục